CHỊ CỐM
Tác giả: Kaiser Kim Thu
CHỊ CỐM
Cuối 1964, sơ tán về quê ngoại, tôi đã học lớp 4 trường làng. Bà nội và chị em tôi ở gần nhà cô Lư, xóm dưới. Băng qua một con đường gạch, tới cái chợ quê sát chân đê, sẽ nhìn thấy xóm Thượng. Trên ấy tôi có một người chị họ, chị gọi mẹ tôi là dì - chị Cốm bé nhỏ của tôi. Chị Cốm hơn tôi ba tuổi, lẽ ra đã vào đến lớp 7. Nhưng chị chả học trường nào hết. Chị chưa bao giờ biết trường, biết lớp học là gì. Các xã quanh làng tôi, ai cũng biết chị. Chị nổi tiếng lắm, rất đặc biệt, vì chị là một đứa con lai.
Chị Cốm có mái tóc vàng, vàng như tóc con búp-bê bố mua cho chị em tôi. Đôi mắt to nâu với hai hàng mi dày dặn. Đặc biệt nữa đó là cái mũi hếch rất nghịch ngợm. Gương mặt lấm tấm đầy những tàn nhang, nước da càng trắng, những chấm li ti ấy lại càng rõ. Ngần ấy, để thấy được, chị phải mang trong mình dòng máu của một người cha da trắng, hiển nhiên không thể là người lính Ma-rốc, hay Tuynidi( Tunisia)... những người lính lê-dương trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã có mặt tại chiến trường ViệtNam.
Chị Cốm sống với ông trẻ và gia đình bác Khiêm, mà chị gọi bằng cậu. Người ta không biết mẹ đẻ của chị là ai. Mẹ nuôi của chị là bác Tươi, con gái ông trẻ, mất từ lúc chị còn ẵm ngửa. Nên ông trẻ thương chị Cốm lắm. Nhưng cái thương nó ẩn náu, găm trong lòng ông, nó trầm và lắng, chứ lúc bực bội, bức xúc, phải la, phải chửi đời, ông lại lấy chị Cốm ra để xả giận cho hả lòng, hả ruột. Chị cũng quen dần, thương ông, cứ cắn răng mà chịu.
Vợ chồng bác Khiêm đông con, còn lít nhít cả. Nên trăm thứ việc đổ hết vào đầu chị Cốm.
Sáng ra, vùng dậy khỏi giường, việc đầu tiên là chị ôm một mớ cỏ tươi cho con bò mẹ. Nó mới đẻ được một con bê xinh lắm. Cậu Khiêm nói cố chăm, để con bê nó kha khá là bán ngay. Xong đấy vào bếp đặt ấm nước để ông pha chè, rồi nấu nồi nước vối. Nhà chị uống nước vối quanh năm. Chị ủ kỹ nồi nước vối, chiều về có rét, thì nước vẫn còn âm ấm. Bây giờ chị chọn khoai đã luộc sẵn từ đêm qua bày lên cái âu nhôm, lát nữa đám trẻ ngủ dậy là có cái ăn ngay. Nhón một củ, vừa đi, vừa ăn, chị gánh đôi quang ra đồng. Cho mãi đến non trưa, chị mới về. Trên vai nặng một gánh rau lợn. Tối đến, nhiều lúc chị Cốm ngủ gật bên chảo cám lợn đang sôi lục bục. Kết thúc một ngày làm việc cật lực của cô bé mới sang tuổi mười ba.
Nếu chỉ ngắm đúng khuôn mặt, nom chị xinh thật. Nhưng cái gương mặt ấy nó gắn trên một thân hình đứa bé gái mới 13 , vốn sớm già trước tuổi. Thành ra chị có một hình thức thật khập khiễng. Chị chỉ nhỉnh hơn tôi một tẹo, thế mà trăm công ngàn việc đằn lên đôi vai kia. Chị gánh gồng, làm việc như một lao động chính trong nhà. Mẹ tôi cứ bảo: Khổ, làm nhiều nó cọc người lại đấy.
Lúc nào thấy chị, là tôi thấy một cái áo cánh nâu, nhuộm củ nâu nay đã phếch trắng ra. Hai bên vai, là hai miếng vá bằng mụn vải màu gụ sẫm, nó chẳng đồng màu, đồng chất gì với cái áo cánh kia của chị. Còn cái quần vải, trông mới thiểu não nữa, dày bình bịch vì quá nhiều mụn vá... Một bà cụ non thì đúng hơn là một cô bé đáng lẽ ra đang trong tuổi thần tiên. Và nữa là chị lắm chấy. Tay chị lúc nào cũng sùng sục trên đầu để gãi, vì chấy cắn. Mẹ tôi đã mua lược bí cho chị rồi, thế mà chả đỡ được mấy. Chị không bao giờ đội nón, dù giữa trưa nắng như đổ lửa. Mái tóc vàng bây giờ khô như rơm, khét mùi nắng hun. Chị cắt cỏ, kiếm củi, mót lúa, mót lạc, mót đậu, hôi cá, kể cả chơi các trò... cái gì cũng giỏi. Tôi đã chứng kiến những cuộc “chọi gà” bằng cỏ gà của chị với bọn thằng Khá, thằng Bàng. Chị biết cách chọn cỏ gà. Gà phải già, cọng cỏ đừng mập và non quá. Nó phải có màu tía đỏ và hơi bánh tẻ. Chứ không, cọng giòn, bị gà đối phương quật gãy ngay. Có hôm tôi xin bà nội lên xóm Thượng, được đi dãy cỏ với chị. Cái con dao cỏ trong tay chị cứ thoăn thoắt. Chị rũ bung nó lên rồi xếp vào sọt. Chị bảo cỏ dày này phơi nỏ đi, đun đượm lắm. Lúc về, thế nào chị cũng làm khẩu súng cho cậu em tôi. Chặt một tàu lá chuối to, phải lấy loại cứng cáp. Róc sạch phần lá đi, chị lấy dao khoét rất khéo trên thân nó một hàng những cái lỗ cách đều nhau, giữ phần nắp lại. Nhấc những cái “nắp” ấy cho đứng thẳng, chị lấy tay đánh roạt một cái thật nhanh, thật mạnh, tạo ra tiếng súng nổ rất đanh. Trò chơi cho đám trẻ quê tôi ngày ấy ...
“Thằng tây mũi lõ, tóc quăn
Đẻ ra con Cốm mắt xanh, tóc vàng
Thằng tây vác bị vào làng
Bắt gà, bắt vịt, bắt nàng xinh tươi”
Chị Cốm vẫn nghe thấy mấy thằng trong xóm hát ghẹo chị thế. Cái quân... Rồi có ngày tao cho mày biết tay tao. Sáng mai, cái thằng Bàng nó phải gánh mạ ra đồng cho thày nó. Nó sẽ phải đi qua cái giếng đầu làng. Năm ấy, cậu Khiêm chị còn có con trâu. Con trâu mang ra bình điểm thì phải đứng đầu xã. Nó trường mình, mông mẩy, chắc chắn, bốn cái chân vững chãi và nhất là hai cái sừng dài, cong như cánh ná. Da lúc nào cũng láng o. Bụng lúc nào cũng căng tròn. Mọng như một quả sim không lồ. Chị Cốm chăm nó lắm. Mùa hè đến, ngồi vắt vẻo trên lưng trâu, chị rong nó qua con sông nhỏ. Chị và trâu bì bõm ngụp lặn trong dòng nước mát. Chị hô cho con trâu quỳ xuống phủ phục, giẫm một bước lên đầu nó, rồi khéo léo leo lên lưng trâu mà cưỡi. Bọn thằng Khá nhìn mà ngán ởn cả người. Con trâu nghe chị, chỉ nghe mình chị.
Sáng ấy, cưỡi trên lưng trâu chị đã bắt được bóng thằng Bàng đang gánh mạ bên vệ đường. Chị cầm thừng giật mũi trâu như người thúc voi ra trận. Hai chân chị thục mạnh vào sườn trâu, giục nó phi lên phía trước. Con trâu lồng lên dằn dữ, như lao vào cuộc chiến, đến chỗ thằng Bàng, chị hét lên :
- Có tránh ra không, chết này!
Thằng Bàng cuống quá, trở tay không kịp, văng hết quang gánh, mạ rơi lỏng chỏng. Bấy giờ chị Cốm ghì trâu lại, ngoái sang thằng Bàng, cười ngặt nghẽo:
- Từ rày, chớ mà hát láo ghẹo tao nghe chưa!
Bên này cầu ao, các bà đang vớt bèo réo lên:
- Con cái nhà ai , mới bảnh mắt ra mà đã lồng lên thế .
- Con bé cái Cốm chứ ai. Tợn thế. Cứ như mấy thằng con giai.
Thi thoảng có việc ông trẻ sai xuống xóm dưới, thế nào chị cũng ghé nhà tôi. Chị em lại túm năm tụm ba chơi chuyền, đọc truyện. Chị thích nghe bọn tôi đọc những cuốn bố đã mang về đây cho chị em tôi. Ba quyển chính là Timua và đồng đội, Đống lửa trong rừng, Không gia đình. Chị cũng chơi rải ranh và chơi chuyền với chị em tôi. Bộ chuyền bằng que kem tôi mang từ Hà nội về, còn quả bóng thì đã hỏng, tôi phải băng nó lại, nâng niu để có mà chơi. Chị thích lắm, nhất là đến bàn chuyền nghe tôi đọc.
“ Đầu quạ quá giang
Sang đò, cò nhảy
Gẫy cây, mây leo
Bèo thối, ổi xanh
Hành bóc vỏ, trứng đỏ lòng
Tôm cong, đít vịt
Vít cành me, bẻ cành sung
Lung tung, thiên hạ
Quét lá bàng
Vào làng, xin thịt
Ra làng, xin xôi
Hỡi các chị em ơi
Cho tôi xin một ván ù”
Dạo lên lớp 5, tôi phải sang làng bên học trường cấp II. Sống ở sát sông Hồng, nên sẵn cát. Lâu lâu, trong trường lại tổ chức gánh cát lấy tiền. Tôi sợ cái vụ này lắm, mà trốn đi đâu cho lọt. Nắng tháng năm vỡ toác cả đầu ra. Áo ướt sũng những là mồ hôi chả kịp lau. Chân mà mang dép thì chẳng gánh gồng được. Bỏ dép ra thì có mà bằng đi trên Sahara. Mà cát thì nặng. Đến được đống cát của lớp, không khéo chỉ còn đôi sọt. Thế là có bận, chị Cốm lẻn ra gánh đỡ cho tôi. Nhìn chị băng băng chạy trên cát trắng, chẳng khác gì cái nấm màu nâu chuyển động. Bây giờ, mỗi lúc rảnh rang nhớ về quê ngoại, cái bóng áo nâu ấy lại khiến tôi cay xè cả mắt. Chị Cốm ơi!
Người thương chị, yêu chị hơn cả, có lẽ là mẹ tôi và cậu Phi.
Lần ấy, trước lúc sang Liên Xô học, cậu Phi về quê ăn giỗ và chào bà con họ mạc. Cậu diện sơ mi với cái quần âu phục màu rêu của trường vừa phát. Chân mang giày da đen, trông rõ ra một học viên hàng không. Chị Cốm cứ xán vào cậu hỏi chuyện.
- Cậu ơi Liên Xô có xa không?
- Xa lắm và rất lạnh.
- Bên ấy có nhiều búp bê lắm cậu nhỉ ?
- Sao cháu biết ? Cậu Phi rất ngạc nhiên.
- Cháu nhà ông Hào xóm dưới có. Nó bằng gỗ, mặc váy hoa, chân có cả giày.
- Bao giờ về, cậu mua cho Cốm một con .
- Thật nhá ! Chị xoay người lại nhìn vào mắt cậu như dò hỏi.
- Ngoắc nào ! Chị giơ tay ngoặc với cậu Phi giống một giao kèo.
- Bao giờ cậu về, mà lấy vợ, có con. Cháu bế con cho. Chị xuống giọng nói nhỏ, đủ để mình cậu Phi nghe được.
Đột nhiên cái câu chứa đầy hàm ý biết ơn ấy thốt lên, khiến cậu giật mình. Một xúc cảm đặc biệt bừng lên trong lòng cậu.
“ Con bé này, cứ tưởng nó khờ. Người đần làm sao nói được câu ấy “.
- Cậu về, cậu sẽ đón cháu lên Hà nội, rồi mày cũng phải đi học nữa chứ!
- Nhưng mà lớn rồi... Chị ngước lên nhìn với một ngạc nhiên trước đề nghị của cậu.
- Lớn thì học bổ túc buổi tối.
Nhưng ước mơ ấy của hai cậu cháu không thành. Nó chỉ làm cho con tim đứa bé côi cút như bị dồn đập lên trong hy vọng, rồi tắt hẳn. Chị cũng không ngờ đấy là lần cuối cậu cháu gặp nhau. Cậu Phi vĩnh viễn ra đi từ tháng Năm 1967. Mãi mãi không có vợ, không có con và chẳng thực hiện được điều đã ngoéo tay cam kết với chị năm nào...
Còn mẹ tôi, mỗi lần từ Hà nội về thăm và tiếp tế cho bà cháu tôi, thế nào cũng ghé lên nhà ông trẻ. Chị Cốm ngóng dì lắm.
- Dì đã về ! Chị lao ra ngõ đón mẹ tôi.
- Dì có mua bánh tây không? Chị bẽn lẽn hỏi nhỏ.
- Có, ở cả trong làn ấy. Quê tôi, các bà, các bác gọi bánh mỳ là bánh tây.
Ăn trưa xong, mẹ lôi chị ra chải chấy. Gớm chết, mẹ tôi kêu trời lên.
- Cháu phải chăm gội đầu chứ. Tóc bết thế này à.
Lần ấy, mẹ mang cho chị đôi guốc gỗ, có vẽ hoa, chị thích quá.
- Quai cao su này bền lắm dì nhỉ. Cháu chả đi, chỉ để rửa chân.
Năm tháng qua đi, chị em tôi từ quê ngoại lại di chuyển sang nơi sơ tán khác, tránh xa những cầu phà, trọng điểm thu hút của không lực Hoa Kỳ.
Rồi tôi đã lên cấp III. Chị gái tôi đã vào trường quân y học. Nhưng chị Cốm thì vẫn thế. Việc nhà vẫn cứ ùn ùn đổ xuống đầu chị. Chị vẫn chẳng được đi học. Chị cũng không thiết học. Chị mong được lấy chồng. Điều ấy cũng khó khăn, giống hệt như việc không được đi học của chị. Nếu chị về làm dâu nhà khác, ai thay chị gánh ngần ấy việc nhà. Ông trẻ đã mất dăm năm nay. Cậu, mợ Khiêm ngày một yếu kém. Có mấy đám đã hỏi, nhưng rồi ông chẳng bà chuộc lại thôi. Mãi sau này, lúc chị đã ngoài ba mươi, có anh thương binh trên xóm giáo nhờ người xuống hỏi.
- Người lương ai lấy chồng bên giáo. Cậu Khiêm ngãng ra ngay.
- Người lành lặn chả ăn ai, lại còn thương binh què quặt thì nước non gì mà trông vào nó. Cậu, mợ chị Cốm vẫn tìm cách phá.
- Người ta thương binh, chứ cháu có thương binh đâu. Cháu làm được cả, chả bận nhờ ai.
Lần đầu tiên, thấy chị Cốm phản ứng mạnh mẽ.
- Này, tao nói nhé. Công giáo, cái ngữ ấy là phải cẩn thận. Phản động cũng có ấy chứ. Bác Khiêm vẫn khăng khăng giữ cái quan điểm ấy.
Hôm mẹ tôi về, bác Khiêm lại đay lại cái ý anh thương binh kia là giáo dân.
- Anh cứ khó khăn thế, bao giờ con Cốm mới lấy được chồng. Nhân dân xứ đạo, nhiều gia đình có công với cách mạng chứ.
Sau đó bẵng đi khá lâu, tôi nghe mẹ kể: chị Cốm đã lấy được anh ấy. Yêu thương nhau lắm, nhưng thật là đau lòng vì anh không thể có con do ảnh hưởng của chất độc màu da cam. Chị Cốm ơi ! Rõ khổ từ lọt lòng vì côi cút, đứa con hoang ngoài mong muốn của một cuộc chiến bẩn thỉu. Rồi mong mãi để được làm vợ, làm mẹ, thì nay vẫn âm thầm gánh tiếp bất hạnh ấy trên vai. Vẫn chỉ là những tủi nhục và nghiệt ngã từ hậu quả một cuộc chiến khác.
Cologne 28.06.2013
Người post: ThuKK
Ngày đăng: 30-06-2013 23:11
COMMENTS CỦA THÀNH VIÊN |
|
Tổng số bài và comment post theo từng khoa
Khoa | Bài viết | Comment |
Sinh | 563 | 9482 |
Lý | 387 | 2824 |
Hóa | 882 | 9765 |
Luật | 721 | 11647 |
Toán | 66 | 376 |
Kinh tế | 4 | 108 |
Câu Lạc Bộ | 30 | 1 |
NCS | 3 | 70 |
Bạn bè | 197 | 1189 |
Dự bị | 0 | 0 |
Ngôn ngữ | 2 | 2 |
10 người post bài nhiều nhất
User | Số bài viết |
TungDX | 289 |
NghiPH | 306 |
NgocBQ | 130 |
ThaoDP | 108 |
CucNT | 123 |
CoDM | 88 |
PhongPT | 73 |
HaiNV | 93 |
LiTM | 85 |
MinhCK | 70 |
10 người comment nhiều nhất
User | Comment |
Guest | 7169 |
NghiPH | 3219 |
LiTM | 1879 |
HaiNV | 1853 |
KhanhT | 1743 |
CucNT | 1718 |
TungDX | 1565 |
ThanhLK | 1545 |
VanNH | 1441 |
ThoaNP | 1257 |