BAO GIỜ LẠI ĐẾN KHAI TRƯỜNG
Tác giả: Kaiser Kim Thu
BAO GIỜ LẠI ĐẾN KHAI TRƯỜNG
Sau những cơn mưa ngâu, đất trời dịu lại. Thời tiết đang vào lúc giao mùa, chuyển vụ. Đó đây, hoa sữa đang ấp nụ, ủ bông. Chỉ còn đợi những cơn gió đầu mùa nhẹ thổi, muôn phương sẽ nồng nàn trong hương thơm hoa sữa.
Dọc các con phố, trên vỉa hè và cả dưới lòng đường, những quả cơm nguội chín đỏ, tựa những hạt cườm, rụng như người rắc. Loáng thoáng đâu đây những quả sấu chín đầu mùa. Thu đã về ư.
Có lẽ bốn mùa trong năm, tiết thu đẹp hơn cả. Vòm trời như cao hơn. Bầu trời như xanh hơn, thăm thẳm. Nắng thu lan tràn, buông tỏa cho không gian lâng lâng một màu hổ phách. Nắng thơm, nắng mỏng như tơ. Gió lay nhẹ lắm, chỉ đủ nghe thấy tiếng lá chạm vào nhau xào xạc.
Ngắm các cháu đến trường trong bộ đồng phục, tôi chạnh lòng nhớ đến cái khát khao của những năm xưa, lúc đất nước mình còn nghèo, thiếu thốn đủ đường: Bao giờ được mặc đồng phục tới trường. Có một nhà báo nước ngoài, đã thốt lên thán phục trước vẻ đẹp duyên dáng, độc đáo của các nữ sinh VietNam trong bộ đồng phục áo dài quần trắng : Như một đàn bướm chốn bồng lai tiên cảnh...
Cuối tháng Tám, chị em tôi đã bọc xong hết sách vở và dán nhãn vở cho từng quyển. Tôi nhớ ngày ấy, nhãn vở là hình hai con thỏ cắp sách, hình đôi vịt bầu đang bơi hoặc một khóm sen hồng... Nghèo nàn lắm. Nhà tôi, nhãn vở cho các cuốn sách giáo khoa, chị tôi thường làm lấy. Chị rất khéo tay và đặc biệt là chữ viết rất chuẩn. Trên giấy trắng kẻ ca-rô, chị dùng thước tạo ra một hình lục lăng, rồi tô màu ở những đường viền. Điền họ tên, lớp và tên cuốn sách xong, cắt xén cho thật khéo, sẽ được những cái nhãn vở khá độc đáo. Đầu những năm thập niên 60, giấy bọc sách vở thường là giấy báo. Sau tiến bộ hơn được bọc bằng họa báo, đủ các màu sắc, trông rất vui mắt. Khi lên đến cấp III, tôi chỉ bọc sách, vở bằng giấy có màu xi- măng, vì thấy chúng trang nhã, sạch sẽ và nghiêm túc. Với các cuốn vở thì đơn giản. Đến các cuốn sách giáo khoa, cái gáy của chúng dày, phải cắt khuyết hai đầu chừng một phân. Lúc bọc vào, giấy sẽ ôm vừa khít lấy gáy của cuốn sách.
Hồi còn nhỏ, bọn tôi thường mua vở, giấy bút, phấn mực ở các tiệm tư nhân. Giữa đường Lý Quốc Sư, căn nhà đối diện với Ngõ Huyện, có một bà cụ chuyên bán những mặt hàng này. Trong tiệm, cụ có đủ cả. Vở ô ly 28 trang, 36 trang. Trên mỗi trang vở, cái gạch đỏ kẻ lề chói một màu son. Giấy trắng Đạo Lâm hay còn gọi là giấy thếp năm hào hai ( có lẽ được gọi theo cái giá của nó). Bút chì, bút mực,ngòi bút mực, tảy, hôp đựng bút, thước kẻ và quản bút các loại. Cái quản bút gỗ thường sơn hai màu, bên trên vàng hoặc đỏ, phần sát với ngòi là màu xanh dương sẫm, cho sạch. Những quản bút bằng sắt thì có nắp. Tôi còn mãi cái chai tay ở ngón giữa bên bàn tay phải, do cầm bút quá chặt. Tiệm cũng có bán phấn,mực tím, bảng đen, giấy màu cho môn thủ công, kéo cắt giấy thủ công. Cái kéo bằng sắt không chống gỉ, nên mau hoen lắm. Nó bé bằng cái tẹo, mỗi lần cắt được một mẩu giấy rồi, rút mãi ngón tay ra chả được. Tôi nhớ đến hôm nay mỗi lần mua ngòi bút. Bao giờ cũng được bà cụ hỏi:
- Loại nào ? Bụng chửa nhé. Cháu lấy mấy cái ?
Ấy là cụ nói cái ngòi bút có bầu ở dưới bụng, để nó đọng lại vài giọt mực dự trữ, khỏi phải luôn tay chấm bút vào lọ mực.
- Hai cái thôi ạ .
Thế là cụ cầm cái ngòi bút ném toạch xuống mặt tủ, đề phòng nếu có cặp díp, thì chúng sẽ bong ra. Bảng đen những năm tôi còn bé, chất lượng tồi lắm. Nó được bồi bằng giấy bên trong. Chóng méo, mau vênh, hay nứt, xước và dễ mủn. Tôi không thấy bán bút máy ở đây. Có lẽ vì lúc học lớp dưới, chưa được viết bút này. Bút bic lại càng không. Cái thước kẻ ngày xưa, ôi tôi nhớ nó đến thế. Dài 30 cm, thiết diện ngang của thước là một hình vuông, mỗi chiều 1cm. Trên một mặt của cái thước khắc độ dài với đơn vị xăng-ti-mét. Cái thước ấy nó là trợ giúp đắc lực cho tôi lúc làm thủ công.
Ở mặt trái của tờ giấy màu, học trò thoăn thoắt lăn cái thước để kẻ những đường bút chì mờ nhạt. Sau đó, cắt rời chúng thành những dải tua rua, đan nong mốt, nong đôi. Hồi nhỏ, làm gì có cái đồ gọt bút chì như hôm nay. Phải gọt bằng dao. Tôi hay nhờ bà nội, bà dùng con dao bổ cau rất sắc, chuốt cho mũi của bút chì rõ nhọn và phần gỗ của bút thật nhẵn.
Sau này lên tới cấp II, văn phòng phẩm Hồng Hà đã đáp ứng khá đầy đủ nhu cầu cho học sinh các cấp.
Những năm trước có phải được như các cháu bây giờ : Các trò lớn thì cặp da. Các trò nhỏ thì cặp sách ngoại dày cộp, với bao nhiêu là ngăn chứa bên trong. Lúc vào khai giảng, đón năm học mới, mỗi đứa bọn tôi có cái túi vải đựng sách vở. Nó được may từ những ô vải tiết kiệm hình tam giác. Quần áo cho ngày khai trường vẫn là những bộ cũ trong năm. Nhiều đứa trong bọn tôi lớn phổng hẳn lên sau kỳ nghỉ hè. Cứ nhìn cái quần đã xuống một lần gấu, với màu vải mới hơn, thì biết.
Hồi ở cấp I, học trò còn rất nhỏ, nhưng vẫn tuân thủ chế độ trực nhật, dù trong trường có các bác lao công. Học sinh làm trực nhật phải đến lớp sớm, ngang tay áo đeo băng trực nhật. Rồi chia nhau quét lớp, giặt khăn lau bảng. Xuống dưới văn phòng giáo vụ lĩnh phấn cho cô, bưng khay mực tím lên, chia cho các bàn. Mỗi bàn học có bốn đến năm em. Trên mặt bàn khoét những cái lỗ để đựng lọ mực. Dù mỗi bàn có tới năm học sinh, nhưng chỉ có ba lọ mực, phải dùng chung nhau.Tôi nhớ như in cái khay gỗ mộc mạc, vẫn còn lươm xươm xơ gỗ do chưa bào kỹ, đựng những lọ mực bằng sứ trắng. Tan học, hai học trò trực nhật sẽ thu lại các lọ mực, trả về cho giáo vụ. Tôi thích những việc làm như thế, và tự hào rằng, có lẽ chúng mình đã đi lên từ cái bình dị nhưng rất ý nghĩa ấy để thành người.
Ai ở Hà nội sẽ biết bánh gối Gốc Đa, nổi tiếng từ lâu. Tiệm nằm trên đường Lý Quốc Sư, cạnh chùa Bà Đá. Nhưng không mấy ai biết rằng, ông cụ chủ nhà những năm thập niên 60 đã từng là ông giáo. Trong số những trò học tư ấy là tôi. Cụ ông - ông giáo Gốc Đa người nhỏ bé, còm nhom, còn cụ bà thì phốp pháp, to béo, đẹp lão lắm, nhất là với mái tóc bạc như cước. Là chỗ quen biết, bà nội đã gửi tôi đến lớp học của cụ, những mong tôi sẽ đọc thông viết thạo, trước lúc tới trường.
Phòng học là một cái gian nhỏ, thấp lè tè và rất ít ánh sáng. Có hai cái bàn, vừa dài vừa nhỏ, được thiết kế trên phản lim, những chân bàn được gắn trên mặt phản. Học trò 5 tuổi, 6 tuổi sau khi khoanh tay lại, lễ phép cúi rạp đầu : "Con chào thầy ạ !" , nhanh chóng leo lên phản, tọa ngay ngắn, chân xếp bằng tròn, đút dưới gầm bàn. Cụ giáo là người nghiêm, rất nghiêm. Nhất nhất phải viết bằng tay phải. Trò nào bỗng theo cái sự thuận tay trái, mà rờ vào phấn, bút, thì cụ giáo khẻ thước vào tay cho đau, để mà nhớ đời. Chúng tôi học ghép vần, tập đọc và tập chép. Quả Cà, con Cá, bát Cơm, Rổ, Rá... chính là những bài học đã khai sinh cho kiến thức của tôi. Giọng nói trầm ấm, khàn khàn pha khói thuốc lào của thày giáo già dưới Gốc Đa, tiếng ê a đánh vần của lũ trò nhỏ áo quần xộc xệch. Hình ảnh ấy, ký ức thân thương ấy, trong tôi, một thời để nhớ. Có lẽ chỉ được vài ba tháng, bà nội tôi xin cụ giáo cho tôi nghỉ, vì sắp bước vào trường học thực thụ. Hình ảnh cụ giáo tư thục và cái phòng học bé tý năm xưa, còn y nguyên trong kỷ niệm học trò của tôi. 54 năm ấy đã qua đi.
Ngày mai là ngày khai trường. Đêm trước thật là thao thức. Hồi cấp I ở Hà nội, tôi học buổi chiều. Lễ khai giảng không có gì trịnh trọng, trang nghiêm. Nhưng lòng học trò thì bao háo hức, mong mỏi sau ba tháng hè dằng dặc. Trên đường phố, đâu cũng í ới tiếng học trò, y hệt những bầy ong vỡ tổ. Trong sân trường, sau lễ chào cờ, chúng tôi về nhận lớp, nhận cô chủ nhiệm.
Những năm còn sơ tán, khai giảng là những ngày vô cùng thú vị, náo nức với tôi. Khi ấy tôi đã lớn và ý thức được sự trọng đại, cái thiêng liêng của ngày đầu cho niên học mới. Lên lớp 5, chúng tôi phải băng qua một con đường khá dài, sang học trường cấp II Hồng Châu ở xã bạn. Từ con đê quai nhìn xuống, trên cái nền xanh thoai thoải của cỏ non, học trò từng đám, từng đám, lũn cũn với cái mũ rơm trên vai, giống như những cái nấm vàng di động - đã một thời là mục tiêu quân sự của không lực Hoa Kỳ. Áo quần thì sẫm một màu nâu và rêu xanh. Duy có những cái khăn quàng đỏ, chúng cứ tươi thắm và kiêu hãnh tung bay trong gió.
Ngoài kia, trống đã đánh hồi cuối. Âm thanh gióng giả, trầm ấm vang lên, báo hiệu giờ vào học. Sân trường phăng phắc dưới nắng thu sang. Lớp tôi say sưa trong một bài đồng ca, mở đầu cho một ngày mới, bước vào niên học mới.
Sau này, mỗi lần nghe tiếng hát của các cháu từ trường cấp I Hoàn Kiếm vọng lại, thì buồn ơi là da diết vì nhớ tuổi thơ.
" Em yêu trường em
Có bao bạn thân
Và cô giáo hiền..."
Có bao giờ dám mơ những ngày khai trường trở lại với mình.
Khai trường năm 1968 của cấp III Chương Mỹ, lớp 8E chúng tôi vắng một học trò, Nguyễn Văn Huyên - lớp trưởng của 7A năm trước đã vĩnh viễn ra đi. Huyên có biết rằng, tiếng trống khai trường hôm ấy khiến chúng tôi thương Huyên, nhớ Huyên đến độ nào không.
Và còn biết bao nhiêu chiến sỹ, nằm lại nơi chiến hào, trong rừng sâu biên giới, hay duới chân thành cổ và đáy sâu dòng Thạch Hãn...vẫn mang theo kí ức tuyệt đẹp của ngày khai trường lần cuối. Kỷ vật ấy theo các anh vào cõi thiên thu, an ủi hương hồn những người lính trẻ.
Cologne 10.08.2013
Người post: ThuKK
Ngày đăng: 15-08-2013 22:10
COMMENTS CỦA THÀNH VIÊN |
|
Tổng số bài và comment post theo từng khoa
Khoa | Bài viết | Comment |
Sinh | 563 | 9482 |
Lý | 387 | 2824 |
Hóa | 882 | 9765 |
Luật | 721 | 11647 |
Toán | 66 | 376 |
Kinh tế | 4 | 108 |
Câu Lạc Bộ | 30 | 1 |
NCS | 3 | 70 |
Bạn bè | 197 | 1189 |
Dự bị | 0 | 0 |
Ngôn ngữ | 2 | 2 |
10 người post bài nhiều nhất
User | Số bài viết |
TungDX | 289 |
NghiPH | 306 |
NgocBQ | 130 |
ThaoDP | 108 |
CucNT | 123 |
CoDM | 88 |
PhongPT | 73 |
HaiNV | 93 |
LiTM | 85 |
MinhCK | 70 |
10 người comment nhiều nhất
User | Comment |
Guest | 7169 |
NghiPH | 3219 |
LiTM | 1879 |
HaiNV | 1853 |
KhanhT | 1743 |
CucNT | 1718 |
TungDX | 1565 |
ThanhLK | 1545 |
VanNH | 1441 |
ThoaNP | 1257 |