Một vài ghi chép về thời đi lính
Tác giả: NghiPH
Một vài ghi chép về thời đi lính
NghịPH- Luật 81
Tháng 8 năm 1971, cũng như bao chàng trai khắp nước Việt, tôi nhập ngũ. Tôi còn nhớ, buổi sáng khám sức khỏe tại xã Ninh Hòa, bà bác sĩ quân y chọc vào đầu ngón tay chỏ của tôi lấy máu để thử. Nhưng đâm mãi mà không được vì các đầu ngón tay của tôi đều bị chai do tiếp xúc nhiều với đất đầy sạn khi bắt cua ở những thửa ruộng gan gà. Sau đó, bà đã lấy máu từ dái tai của tôi.
Có một buổi chiều, các bạn gái trong thôn, trong xã đến chia tay, tặng khăn mùi xoa, tặng vỏ gối có thêu đôi chim bồ câu, tôi xấu hổ chạy vào trong buồng trốn. Mẹ tôi nói mãi, tôi mới chịu ra tiếp các bạn. Thế mà vào tối hôm hợp tác xã Liên Thành[1] tổ chức liên hoan tiễn thanh niên lên đường nhập ngũ, tôi vẫn được cử lên nói cảm tưởng và thể hiện sự quyết tâm ra đi đánh giặc, thề nhất định không đào ngũ. Chúng tôi tập trung tại một sân kho khá rộng của một hợp tác xã gần nhà Nguyễn Ngọc Bình (Toán 1981) để đơn vị điểm danh, phát ba lô, quần áo, màn, giầy, dép, mũ cối, khăn mặt, bi đông nước, ruột tượng đựng gạo[2].
Tôi được phân về Tiểu đội 1, Trung đội 3, Đại đội 3, Tiểu đoàn 645 đóng quân ở gần Đồi Đô, Lạc Thủy, Hòa Bình. Trong thời gian hơn 4 tháng, chúng tôi được cấp tốc huấn luyện, đào hầm, bắn súng, ném lựu đạn, đánh công kiên, đánh vận động, học chính trị, ôn nghèo kể khổ, phát động căm thù...
Tôi ấn tượng nhất là những đợt đi rèn. Mỗi chiến sĩ tự đan một cái sọt, bỏ vào đó 2- 3 viên đất đã được đóng thành hình chữ nhật để có khối lượng 20- 25 kg (tôi không nhớ chính xác là bao nhiêu kg), đeo lên vai rồi tập leo núi, leo đồi, tập chạy. Vai và lưng chúng tôi tứa máu vì các nan của sọt nứa cọ vào. Trong cánh rừng cạnh khu vực đóng quân có nhiều cây giang. Tranh thủ lúc nghỉ, tôi vào rừng chặt được khá nhiều. Khi thày và chị gái lên thăm, tôi đã có quà là những bó giang gửi về quê cho các gia đình trong xóm có lạt buộc bánh chưng khi Tết đến không phải ra chợ mua nữa.
Tháng 01/1972 chúng tôi rời đơn vị huấn luyện đi vào mặt trận chiến đấu. Đơn vị tôi hành quân qua Nho Quan, theo đường 12 ra đường Quốc lộ 1. Hầu như nhân dân cả huyện Gia Khánh, Ninh Bình ra tiễn chúng tôi. Thày Mẹ và các cháu cùng ra đường 1, rồi xuống tận ga Ninh Bình tiễn tôi vào tuyến lửa. Khi đó, Mẹ tôi đang làm Phó Ban Phụ nữ xã nên đã tiến đến bắt tay và chúc tôi: Chúc đồng chí Nghị lên đường mạnh khỏe, lập công trong chiến đấu! Sau này, từ chiến trường ra, được nghe thày tôi kể lại: Buổi trưa hôm đó, tiễn con đi mẹ gắng tỏ ra rắn rỏi đó thôi. Còn tối đến mẹ con ra sau nhà, ôm cây khế con trồng, khóc nấc lên và cứ gọi tên con mãi.
Chúng tôi lên tầu tại ga Ninh Bình. Đến ga Đồng Giao tôi thả một lá thư nhờ người nào nhặt được chuyển cho anh chị Thiệp- Tiệp (vợ chồng chị gái tôi ở Nông trường Đồng Giao). Trong thư tôi thông báo vắn tắt cho anh chị biết là tôi đã lên đường vào Nam chiến đấu, chúc anh chị và các cháu ở lại mạnh khỏe. Khi trở ra Bắc, tôi được biết nhân viên nhà ga đã đem lá thư viết vội đến tận nhà anh chị tôi, khi đó đang sơ tán trong một hốc núi. Đến mỗi một địa danh lịch sử, nhất là Cầu Hàm Rồng, loa phóng thanh trên tầu lại nhắc lại những trang sử hào hùng của dân tộc và những chiến công vang dội của quân và dân ta. Điều này đã khích lệ rất nhiều đối với tôi- một người lính ra trận.
Đến ga Si chúng tôi xuống tàu vào một nhà dân (hình như thuộc huyện Yên Thành, Nghệ An) nghỉ. Được bà mẹ chủ nhà nấu xôi gà cho ăn rất ngon. Tôi nói với mẹ: Chúng con cảm ơn mẹ! Nhưng mẹ ơi, đoàn bộ đội nào qua mẹ cũng cho ăn xôi gà thế này thì hết mất của mẹ còn gì! Mẹ cười: Hết làm sao được hả các con? Các con ra đi không tiếc tuổi xuân, mẹ chỉ mong các con bình an trở về thôi![3] Đêm hôm sau, chúng tôi lên xe nhằm hướng Tây thẳng tiến. Trên xe chúng tôi hát vang các bài ca Giải phóng miền Nam, Tuổi trẻ lên đường, Chiếc gậy Trường Sơn, Như tiếng sấm vang rền… Đoàn xe nối đôi nhau đi, bụi đỏ cuốn lên mù mịt. Bụi chui vào tai, vào mũi, vào họng, chúng tôi móc đất ra và cứ hát vang. Chúng tôi ra đi với tâm niệm: Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù[4]!
Đến Mường Xén chúng tôi dừng lại. Thì ra không phải chúng tôi đi giải phóng miền Nam mà sang Lào giúp bạn. Bọn lính tráng chúng tôi cũng có nhiều tâm tư. Nói theo cách nói của đồng chí chính trị viên là bị bệnh tư tưởng nặng. Bọn tôi cứ thắc mắc: Tại sao lại không đi Nam mà lại sang Lào. Sau đó, trong 3 ngày liền chúng tôi được đơn vị tổ chức cho học chính trị. Chúng tôi đã học, đã thảo luận, nhận thức và thông suốt được câu nói của Cụ Hồ: Cứu bạn chính là cứu mình, giúp bạn chính là giúp mình! Cụ Hồ nói chí lý quá!
Chúng tôi vượt biên giới hành quân sang Lào. Tất nhiên, từ lúc này phải đi bộ thôi. Sau hơn một tuần leo đèo, lội suối và nhiều lần bị máy bay và pháo địch oanh tạc, đơn vị tôi đã đến nơi tập kết. Tôi được đơn vị huấn luyện giao quân về Trung đoàn 141, Sư đoàn 312. Chúng tôi bắt đầu những ngày giữ chốt ở các điểm cao xung quang Cánh Đồng Chum, Phu Tâng, Hang Nước và chuẩn bị tấn công Sảm Thông- Long Chẹn. Tại Cánh đồng Chum, tôi đã từng nghêu ngao mấy câu thơ không biết của ai:
Ai bảo Lào không có biển đừng tin
Biển là tự do, biển là giải phóng
Biển là Cánh đồng Chum mênh mông, mênh mông!
Rải rác khắp cánh đồng Chum có khá nhiều chum đá. Khi đi trinh sát, đã có lúc chúng tôi phải chui vào các chum đá này ẩn mình, gặp trời nắng, nóng ơi là nóng. Về nguồn gốc các chum đá ở Cánh đồng Chum, hiện đang có nhiều giả thuyết khác nhau. Người nói, đây là chum đựng lương thực; người nói, đây là chum đựng rượu mừng chiến thắng. Cũng có người cho rằng, đây là chum để mai táng người chết.
Khi ở Cánh đồng Chum, chúng tôi có phục kích bắt được một số lính đánh thuê người Thái Lan. Tôi nhớ là được giao nhiệm vụ canh gác số lính này trong một cái hang đá tối om… Trong số lính Thái, có người nói được tiếng Việt. Anh chàng này không tỏ ra sợ sệt, trái lại còn cứ chọc tôi: Các chú lính Hà Nội bé tẹo tèo teo! Anh ta cứ nói đi nói lại. Khốn nỗi “hắn” nói đúng vì khi đó tôi nặng có 44 kg thôi. Còn hắn, ít ra theo ước tính của tôi cũng phải 58-60 kg. Hắn trêu mãi làm tôi tức điên lên. Nó dám coi thường mình, coi mình là thiếu nhi, là con nít thì bực quá còn gì. Tôi quát to: Có im đi không! Tao bắn chết bây giờ! Tôi càng quát to, hắn càng cười ngặt nghẽo. Tôi cáu tiết, giơ nòng khẩu AK 47 nhằm vào đầu hắn hét: Im ngay! Ông bắn chết mày bây giờ. Thấy tôi, có thể làm thật, thằng Tỏ, gác phía ngoài cửa hang lao vào căn ngăn: Mày bắn nó là phải ra tòa án binh đó! Người ta sẽ xử bắn mày đấy!
Sảm Thông- Long Chẹn ở vào một địa thế vô cùng hiểm trở. Bọn Vàng Pao phao tin, quân giải phóng Lào và cán quân Bắc Việt không thể tấn công vào căn cứ này được! Vàng Pao là con trời(!)…Chúng thả truyền đơn bay rợp trời, rợp đất. Chúng tôi đã vượt qua nhiều dốc đá dựng đứng và bất ngờ tấn công Sảm Thông. Cuộc tấn công thắng lợi. Tuy nhiên, quân ta bị thương vong rất lớn vì mìn bọn Vàng Pao gài rất tinh vi. Đơn vị tôi, bị thương vong đến non một nửa. Sau đó, chúng tôi bàn giao địa bàn cho Pha Thét Lào và rút ra trấn giữ ở khu vực Cánh đồng Chum. Vừa về tới Hang Nước, đơn vị chúng tôi có lệnh gấp rút trở về nước.
Về Việt Nam, lúc đầu đơn vị tôi ở Đô Lương, Nam Đàn (Nghệ An). Khi ở Đô Lương tôi được phân công ở trong một gia đình làm đồ gốm. Tôi đã được cô gái con bà chủ nhà hướng dẫn dùng bàn xoay nặn được một cái nồi đất. Các gia đình trong làng ở trong các ngôi nhà được đắp bằng tường đất nên khá mát vào mùa hè. Tại Nam Đàn, đơn vị tôi đóng ở xã Nam Thanh. Ở đây, lần đầu tiên trong đời, tôi được ăn quả bồ quân. Thấy các thửa ruộng có nhiều cua, tôi đem xoong ra bắt. Ai dè, rất nhiều bà con trong xóm ra xem. Có một bác luống tuổi tiến đến hỏi tôi: Các chú ở ngoài khu Ba làm sao mà phải ăn cua? Tôi trả lời: Ăn canh cua ngon lắm bác ạ! Cua rang ăn ngon. Dấm cua cũng ngon lắm! Bác ấy nói: Ở trong ni chúng tôi chưa có thói quen ăn cua. Khi nào cực lắm chúng tôi mới ăn.
Sau đó đơn vị chúng tôi chuyển dịch dần vào Đức Thọ, Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Khi tôi ở xã Đức Lâm thấy bà con có đồng đất khá rộng. Tôi được bà con cho thưởng thức món nhút làm từ các múi mít của các quả mít ương ương rất ngon. Đến gia đình nào cũng được mời ăn khoai lang với nác mới- nước chè nấu cả cành nên có vị ngòn ngọt, êm dịu. Thời kỳ ở Thạch Hà đơn vị tôi đã cùng dân quân địa phương bắn rơi tại chỗ một máy bay Mỹ. Trên đất Nghệ An, Hà Tĩnh, các chiến binh kỳ cựu không chỉ huấn luyện cho tôi về "kỹ năng" chiến đấu mà còn huấn luyện cho tôi cả về "kỹ năng" làm quen với các cô gái rất xinh, rất dịu dàng có giọng nói, giọng hát luôn làm trái tim tôi thổn thức, mê mẩn.
Ở Lào ít được tắm rửa nên khi về Nghệ An, Hà Tĩnh tôi thường xuyên ra sông tắm. Trong một lá thư viết gửi về cho thày mẹ (và cả cho Đảng uỷ, Uỷ ban hành chính xã[5]), tôi nhớ có đoạn: Thày mẹ ơi! Nước sông Lam, sông La không bị nóng lên vì bom đạn của giặc Mỹ đâu, dù cho chúng đánh phá suốt ngày, suốt đêm. Con đã đắm mình trong các dòng sông ấy. Nước trong lắm, mát lắm!
Hàng ngày chúng tôi rèn luyện (tập bắn, tập đánh vận động, tập vượt sông, tập đánh quân đổ bộ) để sẵn sàng chiến đấu với quân thủy đánh bộ của Mỹ. Cấp trên cho rằng, Mỹ có ý đồ đổ quân chia cắt con đường tiếp tế cho miền Nam tại khu vực Hà Tĩnh và Quảng Bình. Nhưng rồi quân Mỹ không dám đổ quân, chúng tôi được lệnh gấp rút vào tăng cường cho Quảng Trị. Dọc đường vào Quảng Trị đơn vị tôi đã bị thương vong đáng kể ở Bến phà Long Đại, nông trường Quyết Thắng, Bãi Hà... Việc tiếp tế cho một sư đoàn lớn đang chuyển quân nhiều khi không kịp, chúng tôi đã có ngày nhịn đói.
Trong một đêm tối trời cùng với đơn vị, tôi lội bộ qua sông Bến Hải (đoạn phía Tây, trên vùng núi con sông này chỉ như con suối nhưng nước chảy rất xiết). Vừa tới đất Quảng Trị chưa kịp xốc lại đội ngũ, bọn Mỹ đã phủ đầu đơn vị chúng tôi bằng những trận bom B52 hủy diệt 1/3 quân số. Chúng tôi nhanh chóng chôn cất, tiễn biệt anh em rồi tiến nhanh đến nơi tập kết tại Chùa Nga. Nhiệm vụ của Sư đoàn tôi là: Thay thế Sư đoàn 308 chống địch lấn chiếm, bảo vệ thành quả của việc giải phóng Quảng Trị.
Bắt đầu những ngày chiến đấu gian khổ và vô cùng ác liệt của chúng tôi ở mảnh đất rực lửa Quảng Trị. Cùng đồng đội tôi đã tham gia giữ chốt, phản công các đợt tấn công bền bỉ của sĩ quan và binh lính của Sư đoàn Dù và Sư đoàn Thủy quân lục chiến của chính quyền Sài Gòn (những sư đoàn rất thiện chiến với sự hỗ trợ tối đa của Không quân và Hải quân Mỹ). Tôi đã có mặt tại các điểm chốt ở Đập Đá, ở Thánh địa La Vang, Tích Tường, Động Ông Do, đồi Mâm Xôi, các điểm cao 132, 105…
Đại đội tôi, cứ mỗi tuần đều được bổ sung quân nhưng cũng chỉ có 20- 30 tay súng. Có tân binh mới được bổ sung, sáng sớm gặp em, tôi hỏi: Em quê ở đâu ta? Em trả lời hóm hỉnh: Em không có quê, em người Hà Nội! thì buổi trưa em đã ra đi! Có đồng đội hy sinh chúng tôi phải chôn cất nhiều lần vẫn không yên với bom đạn giặc. Có lần cả trung đoàn tôi bị địch bao vây và bọn chúng định bắt sống chúng tôi vì khi đó đơn vị tôi không còn gạo, không còn đạn do mùa mưa kéo đến việc tiếp tế rất khó khăn. Trong một đêm tối đen, chúng tôi đã khéo léo luồn qua ngay trước các điểm chốt của giặc mà bọn chúng không hề hay biết.
Ở chiến trường Quảng Trị bom đạn ầm ầm suốt ngày, suốt đêm. Và điều đó đã trở nên rất đỗi bình thường. Chính những lúc im ắng quá chúng tôi lại có vẻ sờ sợ. Không biết có cái gì sẽ xảy ra đây? Trong một đêm im ắng, tôi ra khỏi hầm ngước mắt nhìn lên bầu trời đầy sao rồi vừa tự hỏi, vừa tự trả lời:- Ta là gì trong vũ trụ này nhỉ? Là hạt cát ư? - Làm gì bằng hạt cát nếu so với vũ trụ mênh mông bao la kia! - Ta sống trên đời này, trong vũ trụ này được bao lâu nhỉ?- Dù có sống đến 100 tuổi thì sự sống của con người chỉ là cái chớp mắt của vũ trụ thôi[6]. - Trong cái chớp mắt của vũ trụ ấy tại sao con người ta không sống nhân ái, hòa bình với nhau? - Ừ nhỉ sao chúng ta lại đi đánh nhau, bắn giết lẫn nhau?- Mong sao chiến tranh sớm chấm dứt để ta về nhà gặp mẹ, gặp cha, rồi còn đi học nữa chứ... Sau đó tôi ghi vào nhật ký những dòng tự sự này. Đồng chí chính trị viên đại đội “tình cờ” đọc được những dòng tôi ghi trong quyển nhật ký nhân hôm tôi được cử đi trinh sát ở khu vực Thánh địa La Vang gửi lại quân trang cho Ban chỉ huy đại đội quản lý. Lúc về tôi bị đưa ra Liên chi đoàn (tôi là ủy viên BCH Liên chi đoàn của đại đội) kiểm điểm về “tội’ coi người chiến sĩ cách mạng không bằng hạt cát, rồi lại có tư tưởng ủy mị, yếu đuối nữa, rất dễ ra đầu hàng giặc(!). Đây chính là lý do tôi bị gạt ra khỏi danh sách đi học trường sĩ quan pháo binh.
Đêm 26/12/1972 đơn vị tôi chuyển chốt. Trên đường đi, tiểu đội tôi đã trúng phải pháo bầy của địch. Tôi và Đỗ Trung Tá bị trúng pháo. Tôi bị thương vào đầu, ngực và đùi phải. Tá đi trước tôi, bị vỡ khoang bụng phải dùng một cái bát úp vào mới băng được. Anh em cấp tốc đưa chúng tôi ra Trạm xá Trung đoàn. Tại trạm xá, Tá rất tỉnh táo, còn đùa với tôi: Tao cứ tưởng phải lên tới trung tá mới bị thương, mới rời quân ngũ, Nghị ạ! Nay mới binh nhất đã “dính” đạn rồi, tiếc quá, tiếc quá! Một lúc sau thì Tá ra đi. Tôi vuốt mắt cho Tá mà chẳng nói được lời nào.
Từ trạm xá tôi được đưa ra Bệnh viện 301 ở Đông Hà để mổ vết thương. Rồi được đưa ra Bắc điều trị và mổ lần nữa để lấy mảnh đạn ra tại Quân y Viện 5. Ở Quân y Viện ra, tôi được quân đội cho an dưỡng một thời gian ở Đoàn An Dưỡng Quân Khu Hữu ngạn tại Gia Viễn, Ninh Bình. Tiếp đó, tôi được đưa đi ôn tập để thi vào Đại học tại Trường Văn hóa Quân khu Hữu Ngạn (lúc đó đóng ở Chi Nê, Hòa Bình). Thi đỗ vào đại học, tôi ra Hà Nội học tại Khoa Lưu học sinh, Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội (đóng ở Thanh Xuân, lúc đó thuộc Đống Đa, Hà Nội). Những ngày học ở lớp N5 Khoa Lưu học sinh không ai biết tôi đã đi bộ đội. Các bạn trai, bạn gái trong lớp cứ suốt ngày: Nghị ơi, bạn Nghị ơi!
Những ngày cuối tháng 4, đầu tháng 5/1975 tôi được chứng kiến chiến thắng vĩ đại của dân tộc: Giải phóng Sài Gòn, thống nhất đất nước! Tôi lao ra đường hét vang: Giải phóng Sài Gòn rồi! Giải phóng rồi! Hòa Bình rồi! Hết chiến tranh rồi!(7). Từ Thanh Xuân tôi chạy vào Hồ Gươm hòa vào dòng người cùng hát vang bài ca mới tập lúc sáng sớm: Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng!
Tháng 8 năm 1975 tôi sang Liên Xô. Năm dự bị tôi học tại Khoa Dự bị của Trường Đại học Tổng hợp Êrêvan, Cộng hòa Ácmênia. Năm năm sau đó tôi học tại Khoa Luật, Trường Đại học Tổng hợp Kisinhốp, Cộng hòa Mônđavia (8). Tại đây tôi đã gặp và gắn bó với một cô gái dân gốc miền Nam đi học (còn gọi là dân Cục 1) cho đến hôm nay. Tháng 6/1981 tôi tốt nghiệp đại học. Từ 01/11/1981 đến nay, do là một con người cũ cũ, kém năng động, an phận thủ thường nên tôi chỉ làm việc tại một cơ quan- đó là Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
Tháng 5/2004 cùng với đoàn nhà báo Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, tôi đã về lại với đất Quảng Trị. Tôi đã thắp những nén hương tại Nghĩa trang Thành Cổ và một số nghĩa trang khác, tôi thầm nói với các đồng đội của tôi đã hy sinh anh dũng trên mảnh đất này: Các chiến hữu của tôi ơi! Tôi luôn nhớ các chiến hữu! Mong các chiến hữu hãy yên giấc ngàn thu! Tôi không làm gì để các chiến hữu phải hổ thẹn đâu!
[1] Thời kỳ đó, hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ đóng vai trò rất quan trọng ở địa phương về kinh tế, chính trị và xã hội.
[2] Sau này, khi đã đến đơn vị huấn luyện tôi được phát xẻng, súng Ak. Trước khi đi chiến đấu, tôi còn được phát tăng, võng, cà mèn, thuốc chống sốt rét, lương khô, các viên lọc nước.
[3]Sau này ở nhiều địa phương khác của tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Vĩnh Linh và ở Lào tôi và đồng đội cũng luôn được sống trong sự thương yêu đùm bọc của các mẹ, các chị, các em như thế.
[4] Câu nói nổi tiếng của Anh hùng quân đội Lê Mã Lương. Nay anh là thiếu tướng, Giám đốc Viện Bảo tàng Quân đội.
[5] Sau này nghe các đồng chí ở Đảng ủy và UBHC xã nói lại: Lá thư của tôi được Đài phát thanh huyện Gia Khánh phát suốt một tuần liền trong đợt động viên thanh niên tòng quân.
[6] Khi đó trong ba lô của tôi có cuốn sách mỏng, trình bày dưới dạng dễ hiểu về Thuyết tương đối của Anhxtanh, trong đó nhà khoa học vĩ đại của thế kỷ XX có nói về thời gian vũ trụ…
[7] Khi đó, tôi ngây thơ đâu biết được sau này còn có cuộc Chiến tranh Biên giới phía Tây Nam, Chiến tranh Biên giới phía Bắc và cuộc chiến tranh ở Cămpuchia rất gay go, gian khổ, quyết liệt trong nhiều năm trời và biết bao chiến sĩ và sĩ quan của chúng ta lại tiếp tục đổ máu, hy sinh.
(8). Trong lớp tôi, có các bạn Nga, Moldova, Việt Nam. Các bạn Nga, Moldova chủ yếu là cán bộ đi hoc, trong đó có một số thương binh trong cuộc chiến tranh biên giới Xô- Trung. Sinh viên Việt Nam có: 3 bạn nữ Đỗ Ý Thanh (nay đang học ở Mỹ, Tạ Thị Minh Lý ( nay làm việc ở Bộ Tư pháp), Lục Thanh Hải (nay làm việc ở Intemex); các bạn nam: Nguyễn Thân (TANDTC, đã về hưu khá lâu), Nguyễn Huy Ngát (Bộ Tư pháp, nay đã nghỉ hưu ), Lê Khắc Hải (Bộ Tư pháp, nay đã nghỉ hưu), Nguyễn Hữu Hùng (Bộ Quốc phòng, đại biểu Quốc hội chuyên trách), Nguyễn Văn Hiện (nay làm việc ở Ban Cải cách tư pháp Trung ương), Đinh Ngọc Hiện (nay làm việc ở Học viện Chính trị- Hành chính Hồ Chí Minh), Lã Kim Hùng (nay làm việc ở TADN tỉnh Hải Dương), Nguyễn Văn Thông (Trường cán bộ Tòa án, đang nghỉ hưu chờ), Phạm Bá Vị (thẩm phán TAQS Thủ đô, nay đã nghỉ hưu), Nguyễn Đức Mai (thẩm phán TAQS Trung ương, sắp nghỉ hưu), Phạm Ngọc Cảnh (nay làm việc ở Viện Kiểm sát TP Hải Phòng), Vũ Quang Trượng (nay làm việc ở Cục thi hành án tỉnh Phú Thọ), Đoàn Văn Huệ (nay làm việc ở Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên- Huế), Nguyễn Danh Uy (Công ty Xuất nhập khẩu thủy sản miền Trung), Đoàn Ngọc Xuân, (Đoàn luật sư TP Hồ Chí Minh.).
Các bạn Việt Nam học trên chúng tôi 1 lớp, về nam có: Hùng Việt, Bạch Hà, Xuân Thanh, Công Thắng, Tiến Long; về nữ có: Minh Hạnh, Quang Vinh, Bích Hòa, Cẩm Hòa, Kim Bình, Thu Thủy, Thanh Thảo, Tinh Hoa, Thanh Phương.
Người post: NghiPH
Ngày đăng: 02-10-2010 18:06
COMMENTS CỦA THÀNH VIÊN |
|
Tổng số bài và comment post theo từng khoa
Khoa | Bài viết | Comment |
Sinh | 563 | 9482 |
Lý | 387 | 2824 |
Hóa | 882 | 9765 |
Luật | 721 | 11647 |
Toán | 66 | 376 |
Kinh tế | 4 | 108 |
Câu Lạc Bộ | 30 | 1 |
NCS | 3 | 70 |
Bạn bè | 197 | 1189 |
Dự bị | 0 | 0 |
Ngôn ngữ | 2 | 2 |
10 người post bài nhiều nhất
User | Số bài viết |
TungDX | 289 |
NghiPH | 306 |
NgocBQ | 130 |
ThaoDP | 108 |
CucNT | 123 |
CoDM | 88 |
PhongPT | 73 |
HaiNV | 93 |
LiTM | 85 |
MinhCK | 70 |
10 người comment nhiều nhất
User | Comment |
Guest | 7170 |
NghiPH | 3219 |
LiTM | 1879 |
HaiNV | 1853 |
KhanhT | 1743 |
CucNT | 1718 |
TungDX | 1565 |
ThanhLK | 1545 |
VanNH | 1441 |
ThoaNP | 1257 |