KGU Poetry
KGU Tạo bài viết  
Chọn
Thứ bảy 16 Tháng sáu. 2012

Truyện thơ về Thiên Cổ Miếu - Phần 6




Tác giả: TuanDK

PHẦN VI: MIẾU ĐỀN XÂY GIỮA LÒNG DÂN

Vua Hùng thứ 18 tuổi già sức yếu, không có thái tử nối ngôi đã nhường ngôi báu cho Thục Phán (người tương truyền là cháu ngoại nhà Hùng) vì trước đây Thục Phán đã nhiều lần gây chiến để tranh ngôi vua với Hùng Duệ Vương. Sau khi tiếp nhận ngai vàng, Thục Phán lên ngôi, xưng hiệu là An Dương Vương, đổi tên nước Văn Lang thành Âu Lạc và dời đô về Cổ Loa.

Sau khi vua Hùng qua đời, ba anh em Vũ Rô trở về thôn Hương Lan và ngày ngày lấy việc câu cá làm vui. Một hôm, họ nhận được chiếu chỉ của An Dương Vương triệu về Cổ Loa làm đô sĩ cho vua Thục. Để tỏ lòng trung thành với vua Hùng, ba ông đã buộc đá vào người và nhảy xuống đầm nước tự vẫn. Khi dân làng vớt được ba ông lên, chưa kịp an táng thì thi hài của ba ông mối đã đắp kín. Tin ba ông hy sinh bay về Cổ Loa, An Dương Vương vô cùng cảm phục đã sắc phong cho ba ông làm Thành Hoàng thôn Hương Lan và lệnh cho dân làng dựng đình thờ đời đời cúng tế. Mộ Thành Hoàng cũng được xây dựng chính tại nơi gò mối và còn lưu giữ được đến ngày nay. Mộ phần của ông bà Vũ Thê Lang cũng được xây dựng thành ngôi miếu thờ. Đó chính là Thiên Cổ Miếu ngày nay. Ngày 28/5/2012 vừa qua, hai cây táu trước cửa Thiên Cổ Miếu và cây da bò bên mộ Thành Hoàng đã được Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam công nhận là cây Di sản Việt Nam và cấp bằng chứng nhận.

        Tiếc thay vật đổi, sao dời

Cuốn thơ hay cũng đến hồi sang trang

        Thục Vương tiếp nhận ngai vàng

Đổi luôn quốc hiệu Văn Lang bao đời

        Dời đô vương quốc về xuôi

Những mong Âu Lạc rạng ngời sử xanh

        Bắt phu xây đắp Loa thành

Ruộng vườn bỏ mặc, cửi canh trễ tràng

        Phong Châu vắng vẻ, hoang tàn

Đêm đêm tiếng cuốc thở than não nề

        Phút lâm chung đã cận kề

Duệ Vương lòng dạ tái tê, buồn rầu

        Nhìn ba đô sĩ đứng hầu

Động lòng muốn nói đôi câu chân tình

        Hơi tàn, gắng sức bình sinh

Máy môi, khe khẽ cựa mình, xuôi tay...

        Thôi đành giã biệt từ nay

Chỉ còn hoài niệm tháng ngày đã qua

        Người đi khuất bóng non xa

Người về chốn cũ sương pha mái đầu

        Xóm làng xa cách bấy lâu

Vẫn xanh đồng lúa, bờ dâu năm nào

        Lời ru xưa vẫn ngọt ngào

Vẫn câu thăm hỏi ồn ào, chân quê

        Nồi khoai luộc, bát nước chè

Xóm giềng vui đón người về, đến chơi

        Theo vua đã bấy năm trời

Bạc vàng gấm vóc một thời cao sang

        Hôm nay về tắm ao làng

Bơi con thuyền thúng băng ngang mặt đầm

        Buông câu ngồi dưới bóng râm

Lặng nghe tiếng gió thì thầm bên tai

        Bờ tre tiếng cuốc kêu hoài

Cánh cò trắng muốt vẫy ngoài đồng xa

        Bình tâm giữa chốn quê nhà

Nghĩa đời hai tiếng ngẫm ra bao điều

        Công danh như áng mây chiều

Vầng dương lặn đã mang theo ánh hồng

        Chỉ còn lại đám mây bông

Lặng thầm trôi giữa mênh mông bầu trời

        Quê nhà thân thuộc là nơi

Dừng chân đặt gánh khi đời sang thu

        Kiếp người đâu khác phù du

Mấy mươi năm bóng câu vù qua song

       Vùi than ủ kín lửa lòng

Đợi trăng, đón gió, thong dong cả cười

       Trách con tạo khéo trêu ngươi

Phong trần lại thử lòng người tôi trung

        Quan quân lùng sục khắp vùng

Bắt phu đâu kể thôn cùng, xóm xa

        Buồn cho thành luỹ Cổ Loa

Chẳng may gặp giống tà ma quấy rầy

        Công phu xây đắp tháng ngày

Bỗng dưng sụp đổ trắng tay bao lần

        Nhọc lòng vua, tổn sức dân

Làm kinh động cả thánh thần linh thiêng

        Một ngày gió lặng trời yên

Bình minh rực rỡ chiếu trên kinh kỳ

        Vị thần tên gọi Kim Quy

Được Trời sai xuống độ trì Thục Vương

        Trước sau chỉ vẽ tỏ tường

Vua nghe thêm vững bước đường dựng xây

        Cổ Loa xưa vốn bãi lầy

Xây thành chỉ một cách này mà thôi

        Theo hình xoắn vỏ ốc nhồi

Đá kè chắc móng đắp bồi đất lên

        Lo chi thành chẳng vững bền

Tiện bề phòng thủ dưới trên trong ngoài

        Thục Vương sai đắp y bài

Lại sai diệt lũ tác oai tinh gà.

        Từ đây trên bãi phù sa

Loa thành sừng sững một toà khôn lay

        Móng thần làm lẫy trao tay

Nỏ liên châu vút tên bay mặt thành

        Tháng Mười, buổi ấy nắng hanh

Phất phơ bến vắng đôi nhành hoa lau

        Ba ông lặng lẽ ngồi câu

Chợt nghe vó ngựa khua đầu thôn Hương

        Một người lính đỏ bụi đường

Nhìn quanh đầm nước, rẽ cương tiến vào

        Tới nơi, xuống ngựa, cúi chào

Rút tờ lệnh chỉ, thở phào, giở ra:

        "Lệnh ba đô sĩ Vũ gia

Đúng ngày... phải tới Cổ Loa hầu trình

        Nếu không tuân cứ nghiêm minh

Phạm vào tội nặng, phép hình xử nghiêm!"

        Ba ông nhận lấy, cùng xem

Ra vua Thục muốn anh em về hầu

        Chẳng màng cá đã cắn câu

Đăm chiêu nét mặt, chụm đầu nhỏ to:

         "Nhớ xưa cha vẫn dặn dò

Làm người ân nghĩa phải lo đáp đền

        Cái tâm, cái đức là nền

Vô ơn bạc nghĩa chẳng nên thân người

        Hùng Vương ân đức bể trời

Anh em ta nguyện suốt đời tận trung

        Thà làm ma đất nhà Hùng

Còn hơn sống phải về cùng Thục Vương

        Cần chi lẩn tránh tha phương

Xin cùng chết giữa thôn Hương nghĩa tình

        Thương sao Mộ Trạch quê mình

Suốt đời chỉ thấy bóng hình trong mơ

       Từ đây thôi chẳng bao giờ

Có ngày về vẫn đợi chờ bấy nay

        Chúng con thành kính chắp tay

Cúi mong Tiên Tổ tình này thấu cho

        Cha ông phiêu bạt cánh cò

Cũng vì cơm áo - nỗi lo muôn đời

        Chúng con từ thuở nên người

Những mong tình nghĩa vua tôi đáp đền

        Chưa về viếng mộ tổ tiên

Anh em nội ngoại đôi bên xa gần

        Chưa về thăm được một lần

Lỗi này thật đáng muôn phần trách chê

        Kiếp sau xin nguyện về quê

Nếu trời cho được quay về dương gian

        Ngẫm trong nghĩa cả giang san

Đông Ngàn, Mộ Trạch, Hương Lan một nhà

        Cũng đồng xanh lúa quê cha

Ngàn dâu quê mẹ mượt mà, thân thương

        Thôi đừng... cho dạ vấn vương

Mai ngày họ mạc hàng hương tìm mình!"

        Đá đeo vững chí quyên sinh

Nước trong gửi gắm thân hình làm tin

        Ao đầm nuôi họ lớn lên

Hôm nay lại đón vẹn nguyên trở về

        Bập bềnh ba chiếc giỏ tre

Ba cần câu trúc hoe hoe sắc vàng

        Đìu hiu bông súng, bông trang

Lá khô đôi chiếc khẽ khàng gió đưa

        Dân làng tìm vớt lên bờ

Trời chiều, an táng phải chờ hôm sau

        Cắn răng nén nỗi thương đau

Lòng như xát muối, nhìn nhau lệ trào

        Dẫu không cùng giọt máu đào

Mà tình nghĩa vẫn xiết bao mặn nồng

        Nhẹ tay vuốt mắt ba Ông

Xót xa, trìu mến như lòng mẹ cha

        Một lần để mãi chia xa

Nước thơm tắm gội làn da phong trần

        Khoác lên tấm áo quen thân

Như ngày theo Đức Minh Quân đi về

        Lụa vàng sắc nắng đồng quê

Quấn quanh theo đúng tục lề Văn Lang

         Hay tin, mấy cụ trong làng

Cỗ cây phòng lúc vội vàng đi xa.

        Sai ngay con cháu đem ra

Nhường người đi trước, việc nhà liệu sau

       Bát âm tấu khúc nhạc sầu

Bập bùng đuốc lửa nối nhau trên đường

        Người về đặt lễ, dâng hương

Đợi mai giờ tốt, tan sương, ra đồng

        Canh khuya tĩnh lặng mênh mông

Nỗi buồn xao xuyến cả lòng đất sâu

        Sáng ra kinh ngạc nhìn nhau

Ba gò mối đắp tươi màu đất son

        Cần câu, giỏ cá vẫn còn

Bên bờ đầm nước đã mòn dấu chân

        Xôn xao bàn tán xa gần

Rằng ba Thần tướng xuống trần giúp vua

        Thế thời nắng đổi sang mưa

Vua băng, ba vị gió đưa về trời

        Thần linh rời khỏi cõi đời

Xác phàm để lại cho người ngưỡng trông

        Loa thành vó ngựa ruổi rong

Tin về, vua Thục tỏ lòng tiếc thương

        Ngẫm mình là bậc quân vương

Công minh trước phải làm gương với đời

        Truyền cho thuộc hạ thay lời

Thành Hoàng phong tặng cho người liệt trung

        Lệnh cho dân chúng trong vùng

Dựng đình thờ phụng, ghi công Thành Hoàng

        Đời đời cúng tế đèn nhang

Thôn Hương đã có đình làng từ đây

        Mộ Thành Hoàng được dựng xây

Nơi gò mối mọc lên cây da bò

        Tán xoè như chiếc lọng to

Dầm sương, dãi nắng, che cho mộ phần

        Mỗi năm thay vỏ một lần

Để lưu mãi tuổi thanh xuân chẳng già

        Thờ con, nhớ đến mẹ cha

Khắc ghi công đức ông bà Thê Lang

        Trọn đời gắn bó với làng

Dạy cho chữ nghĩa, tằm tang truyền nghề

        Mộ phần Hai Cụ xưa kia

Dựng thành ngôi miếu tiện bề đèn nhang

        Hàng năm mỗi độ Xuân sang

Tháng Hai, ngày giỗ(1), dân làng về đây

        Thắp hương, dâng lễ Cô, Thầy

Cầu cho con cháu mai ngày làm nên

         Chuyện Ông Hoàng Hổ chưa quên

Có phần lễ vật dâng lên khấn cùng

        Hai cô công chúa vua Hùng

Về sau cũng được thời chung cùng Thầy

        Cổng vào táu quý đôi cây

Đất lành bén rễ, tháng ngày tốt xanh

        Hè sang, hoa nở trĩu cành

Cánh vàng, cánh bạc long lanh nắng trời

        Ngàn năm dâu bể cuộc đời

Miếu thờ bao lượt đổ rồi lại xây

        Khi thì ngói đỏ tường vây

Lại khi tre nứa, lạt mây lá gồi

        Nhỏ to tuỳ lúc tuỳ thời

Tâm thành chỉ một hướng nơi ban thờ

        Ơn này sáng chữ, vàng tơ

Người Hương Lan chẳng bao giờ đơn sai

        Xóm trong gọi khác thôn ngoài

Trong ngôi miếu cổ mang vài bốn tên:

        "Miếu Cây Táu" dễ ai quên

"Miếu Hai Cô", "Miếu Mẫu" thêm "Miếu Thầy"

         Tên "Thiên Cổ Miếu" giờ đây

Chữ Nho mấy cụ làng này đặt ra

         Vào năm Một Chín Chín Ba (1993)

Miếu xây dựng lại, thôn nhà góp công

         Đời nghèo chỉ có tấm lòng

Cố tôn tạo được hậu cung, ban thờ

        Trên cao đặt tượng Thầy, Cô

Tượng Tiên Dung với Ngọc Hoa kế hàng

        Hai bên thị nữ hai nàng

Cốt lo có chốn đèn nhang ngày tuần

        Miếu đền xây giữa lòng dân

Muôn đời vững chãi, đâu cần cao sang

                                       (Còn nữa)

      

 

                                                      

 

(1). Ngày mồng Hai tháng Hai âm lịch là ngày giỗ của Ông Bà Vũ Thê Lang - Nguyễn Thị Thục

Chú thích ảnh:

(2) Ảnh minh họa: Mộ ba anh em Vũ Rô bên cây da bò.

(3) Một số cổ vật (rìu đồng và bát đồng) tìm được trong khuôn viên Thiên Cổ Miếu.


Người post: TuanDK

Ngày đăng: 16-06-2012 19:07






Xem 1 - 4 của tổng số 4 Comments

Từ: LyTM
19/06/2012 21:10:25

Sống nhờ nước, hóa trong lòng nước


Ba chàng Rô, tuẫn tiết trung trinh


Dòng sông ánh nước lung linh


Bao đêm trăng bạc, vì tình lặn sâu


Tìm mãi thế, đâu người tài lội


Về cõi xa, về cội Vua Hùng


Ngàn năm sóng vỗ trùng trùng


Nước đi mải miết, tôi trung chẳng già


Hồn bảng lảng, quê nhà nhớ lắm


Nghĩa vua tôi, xanh thắm tình thâm


còn đâu, buông lưỡi câu dầm


còn đâu bến cũ, sóng ngầm đưa câu


Còn đâu nhỉ, chuyến đò sâu đó


Người chèo buông câu hát ân tình!


Còn đâu, sông lặng bình minh


Hoàng hôn ráng tím, soi hình mây bay!


Trời sầu não, trời hay mưa lớn


Nước dâng cao, nước gợn sóng ngầm


Ba chàng Rô đã âm thầm


Về thăm đất mẹ, sông dầm dề mưa!



Từ: ThanhLK
17/06/2012 16:11:32

Cái chết của 3 chàng Rô thật tiếc, nhưng đầy nghĩa khí. Đúng là: Quê nhà thân thuộc là nơi/Dừng chân đặt gánh khi đời sang thu. Tác giả đã rất kỳ tài khi mô tả tâm trạng 3 chàng Rô trước khi quẫn tiết vẫn còn áy náy vì chưa về thăm quê nội được. Phần thơ này chan chứa tâm hồn Việt!



Từ: NghiPH
17/06/2012 10:47:47

Đền miếu xây dựng giữa lòng dân nên chúng trường tồn!



Từ: LyTM
16/06/2012 22:17:51

Vua Hùng Mười Tám qua đời


Càn Khôn chuyển vận, thế thời sang trang


Từ đây chuyển đổi ngai vàng


Dời đô, Thục Phán chọn làng Cổ Loa


Xây thành, lớp lớp dựng ra


Hào sâu chờ giặc Triệu Đà mai sau!


Diệt yêu, hàng quái ban đầu


Trăm dân đóng góp sức lâu mới thành!


Chuyện xưa, Ngọc sáng lonh lanh


Nỏ thần tin giặc, thành đành tan hoang!


Cũng vì bao đấng hào anh


đã không chịu cảnh thờ ngang nhiều thầy!


Ba chàng Đô sỹ thẳng ngay


sống đời dân giã, sông bày cắm câu,


con tôm, con cá,... dãi dầu


tiếc chi kẻ dạ, người hầu vây quanh,...


Tiếc chi cuộc sống trâm anh


ba chàng bầu bạn, sông dành cá, cua...


Lệnh vời về để chầu Vua


An Dương vương triệu, có đùa được chăng?


Ngẩng đầu ngắm ánh trăng thanh


cúi nhìn dòng nước mênh mang vỗ bờ


Vẫn còn đây một giấc mơ


Nhớ quê, sóng nhẹ, thẫn thờ, ngẩn ngơ!


Một lòng chọn Chúa để thờ


Đã từng tuyên thệ, bao giờ dám quên


Một lòng giữ chữ tôi hiền


Vua xưa đã trọng, chức quyền coi khi!


Giữa dòng sông, quyết ra đi


Ba chàng Đô sỹ nước thì tiễn đưa


Dân làng đau đớn, lệ mưa


Ngờ đâu, trời đất qua vừa một đêm


Đã làm ụ mối đùn lên


Ba Gò cao ấy, mộ liền nối nhau


Thành Hoàng từ đó nhiệm màu


Da bò cây ấy che đầu tán xanh


Gọi mây lành đến quấn quanh


Chở Tiên thăm cảnh, đất lành, khói hương


Mới hay Trời đất cũng thương


người hiền đất Tổ, Miếu đường linh thiêng!



Tổng số bài và comment post theo từng khoa

KhoaBài viếtComment
Sinh 563 9482
387 2824
Hóa 882 9765
Luật 721 11647
Toán 66 376
Kinh tế 4 108
Câu Lạc Bộ 30 1
NCS 3 70
Bạn bè 197 1189
Dự bị 0 0
Ngôn ngữ 2 2

10 người post bài nhiều nhất

UserSố bài viết
TungDX 289
NghiPH 306
NgocBQ 130
ThaoDP 108
CucNT 123
CoDM 88
PhongPT 73
HaiNV 93
LiTM 85
MinhCK 70

10 người comment nhiều nhất

UserComment
Guest 7170
NghiPH 3219
LiTM 1879
HaiNV 1853
KhanhT 1743
CucNT 1718
TungDX 1565
ThanhLK 1545
VanNH 1441
ThoaNP 1257
s