Truyện thơ về Thiên Cổ Miếu - Phần 7
Tác giả: TuanDK
PHẦN VII: NGẪM VỀ NÒI GIỐNG RỒNG TIÊN
(Tiếp theo và hết)
Thầy ngồi sau dải khói nhang
Ngẫm về non nước mấy ngàn xuân qua
Thục Vương mắc kế Triệu Đà
Nỏ thần hết phép, Cổ Loa điêu tàn
Đau lòng nước mất nhà tan
Đắm chìm cơ nghiệp dưới làn nước sâu
Đêm trường Bắc thuộc thương đau
Gồng mình quyết giữ sắc màu riêng ta
Trống đồng, phần mộ ông cha
Gửi lòng đất mẹ, tránh xa vuốt thù
Trăng rằm tạm hóa trăng lu
Vừng hồng ẩn khuất sương mù thiên niên
Đền thiêng mượn dáng cửa thiền
Mang hình hài Phật, tổ tiên lặng ngồi
Chữ ta người cướp mất rồi
Chữ người vay mượn bao đời xót xa
Cắn răng giữ lấy gốc nhà
Viết thì viết vậy, đọc pha tiếng mình
Đêm dài thắp sáng bình minh
Gông xiềng rũ bỏ hồi sinh nước nhà
Bạch Đằng một trận xông pha
Nước ta lại có vua ta trị vì
Thế thời khi thịnh, khi suy
Mà nền văn hiến kém gì ai đâu
Nghiệp thầy mai một bấy lâu
Giờ hưng thịnh lại khoác màu đạo Nho
Thiêng liêng là nghĩa thầy trò
Người truyền nửa chữ được cho là thầy
Phận trai chí lớn vươn mây
Gắng công đèn sách, đợi ngày ứng thi
Ông nghè, ông thám vinh quy
Công danh bia đá khắc ghi để đời
Chí cao lay chuyển ý trời
Đèn đom đóm cũng rạng ngời hào quang
Trẻ trâu cũng chiếm bảng vàng
Tự hào làng xã, vẻ vang nước nhà
Gặp thời binh lửa can qua
Nho sinh gác sách xông pha trận tiền
Được khi vua sáng, tôi hiền
Đem tài giúp nước, bút nghiên tung hoành
Gặp vua u tối, thôi đành
Từ quan giữ lấy thanh danh đạo nhà
Thanh bần thưởng nguyệt xem hoa
Dạy truyền tri thức tạo đà lớp sau
Lòng thầy day dứt bấy lâu
Ngàn năm Bắc thuộc mượn câu chữ người
Nước ta độc lập lâu rồi
Chữ cha ông chửa tới hồi đơm hoa?
Ai người yêu tiếng mẹ cha
Chữ Nho cải tiến làm ra chữ mình
Dẫu cho vẫn nét tượng hình
Tiếng ta ta nói, chữ mình mình ghi
So cùng Khoa Đẩu sao bì
So cùng chữ Hán khác chi vực trời!
Tiếc sao vua chúa bao đời
Chữ Nôm chẳng được chép lời quân vương
Một ngày tàu biển Tây phương
Bể Đông rẽ sóng tìm đường sang ta
Ta xưa chỉ biết Trung Hoa
Giờ vươn tầm mắt trông ra địa cầu
Văn minh kỹ thuật Tây Âu
Hiện ra dưới bóng con tàu xa khơi
Khiến cho trí thức đương thời
Ngưỡng trông thành tựu nước người ngẫm suy:
Nhân tài đất Việt thiếu gì
Cớ sao cứ phải mãi đi sau người?
Bởi chưng Nho giáo lỗi thời
Cản ngăn tiến bộ, xa rời văn minh
Nhà nho tự trói buộc mình
Giữa vòng luân lý nhân sinh hẹp hòi?
Muốn cho rạng rỡ giống nòi
Phải mong thoát khỏi vòm trời nho gia
Mở lòng đón gió phương xa
Học tri thức giúp nước nhà canh tân
Hỏi đâu thứ chữ ta cần
Làm chim én gọi mùa Xuân đất này?
Chữ nho vay mượn bấy nay
Ngàn người biết chữ họa may mấy người
Chữ Nôm ghi trọn ý lời
Với nhân quần vẫn xa vời chân mây
Tìm nơi thôn dã đó đây
Hóa ra Khoa Đẩu tới nay vẫn còn
Ông truyền, cha lại dạy con
Chẳng như nước chảy đá mòn tháng năm
Chữ ta như mạch nước ngầm
Luồn qua dâu bể, thăng trầm, đầy vơi
Qua bao số phận, cuộc đời
Vẫn bừng nét lửa tự thời Hùng Vương
Ngàn năm dằng dặc chặng đường
Không ngừng chuyển vận âm dương ngũ hành
Chàng trai Tiếng Việt trưởng thành
Qua thời thơ ấu Âm Thanh Lạc Hồng
Nhận về tinh túy Á Đông
Cội nguồn gốc rễ tổ tông kế thừa
Lại dùng Khoa Đẩu chữ xưa
Đôi giầy thơ bé khó vừa bàn chân
Chữ Âu tiện dụng muôn phần
Chữ Khoa Đẩu sẵn âm vần đó thôi
Thời cơ cải cách đây rồi!
Latinh hóa chữ tới hồi thành công
Giã từ nghiên mực, bút lông
Tin về chín suối tổ tông ngậm cười:
Văn minh, trí tuệ loài người
Hợp thành chữ viết ghi lời mẹ ta
Đời vui dân chủ cộng hòa
Người người viết thạo, nhà nhà đọc thông
Xóa mù - Vang dội chiến công
Nhớ thời dựng nước cha ông mở đường
Từ căn lớp nhỏ thôn Hương
Con đường thẳng hướng về phương mặt trời
Thiên niên kỷ rưỡi dần trôi
Mái trường Thái Học rạng ngời nước non
Khắc ghi cột mốc tươi son
Nhân tài đất nước tạo nguồn từ đây
Hồ Văn mấy độ vơi đầy
Bia nghè đứng mặc tháng ngày nắng mưa
Ngọn đèn sáng cửa Thầy xưa
Soi đường lớp trẻ kế thừa hôm nay
Lớp trường khắp chốn dựng xây
Trùng trùng đội ngũ cô, thầy dấn thân
Tìm cho Tổ quốc nỏ thần
Là nền giáo dục nhân dân sáng ngời
Thầy mừng, nét mặt vui tươi
Mong cho nghiệp lớn “trồng người” tiến mau
Sánh vai cường quốc năm châu
Tiếng thơm thơm mãi dài lâu muôn đời
Mênh mang biển học loài người
Việt Nam - Gương mặt sáng tươi trăng rằm
Ngắm đàn em nhỏ học chăm
Vuốt chòm râu bạc tháng năm, Thầy cười…
x x
x
Chuyện xưa tới đoạn kết rồi
Mà lòng xao xuyến, bồi hồi không yên
Ngẫm về nòi giống Rồng Tiên
Tự buổi đầu đã rạng nền văn minh
Có thầy, có chữ của mình
Nét xưa Khoa Đẩu lưu hình đó đây
Ngàn năm rạng rỡ nghiệp Thầy
Lưu danh miếu cổ bấy nay, khỏi bàn!
Phải đâu truyền thuyết dân gian
Chính tay Đông Các Đại Quan soạn lời
Mực đen, giấy trắng để đời
Thiết tha mong đợi mỗi người chúng ta
Tìm mau chữ của ông cha
Hiểu nền giáo dục nước nhà Văn Lang
Miếu kia vẫn đứng bên đàng
Ngàn năm hoa bạc, hoa vàng cứ rơi
Tìm về quá khứ xa xôi
Để tin yêu mãi cuộc đời hôm nay
Công ơn Tiên Tổ cao dày
Lòng thành, mộc mạc giãi bày chuyện xưa.
Việt Trì, năm 2012
[1] Tức chữ Nôm
2 Tức Văn Miếu Quốc Tử Giám
3 Tức Hàn Lâm Viện Đông Các đại học sỹ Nguyễn Bính (1525-1605), người soạn bản Ngọc Phả đình Hương Lan (Việt Trì) năm Hồng Phúc nhị niên (1573), nói về công đức của gia đình họ Vũ thôn Mộ Trạch, từ Vũ Công tới ba anh em Vũ Rô.
Người post: TuanDK
Ngày đăng: 25-06-2012 00:12
COMMENTS CỦA THÀNH VIÊN |
Xem 1 - 3 của tổng số 3 Comments
|
Tổng số bài và comment post theo từng khoa
Khoa | Bài viết | Comment |
Sinh | 563 | 9482 |
Lý | 387 | 2824 |
Hóa | 882 | 9765 |
Luật | 721 | 11647 |
Toán | 66 | 376 |
Kinh tế | 4 | 108 |
Câu Lạc Bộ | 30 | 1 |
NCS | 3 | 70 |
Bạn bè | 197 | 1189 |
Dự bị | 0 | 0 |
Ngôn ngữ | 2 | 2 |
10 người post bài nhiều nhất
User | Số bài viết |
TungDX | 289 |
NghiPH | 306 |
NgocBQ | 130 |
ThaoDP | 108 |
CucNT | 123 |
CoDM | 88 |
PhongPT | 73 |
HaiNV | 93 |
LiTM | 85 |
MinhCK | 70 |
10 người comment nhiều nhất
User | Comment |
Guest | 7169 |
NghiPH | 3219 |
LiTM | 1879 |
HaiNV | 1853 |
KhanhT | 1743 |
CucNT | 1718 |
TungDX | 1565 |
ThanhLK | 1545 |
VanNH | 1441 |
ThoaNP | 1257 |