Truyện Chùa Bối Linh ( Phần 2)
Tác giả: TuanDK
TRUYỆN CHÙA BỐI LINH (SỐ 2)
Giở trang lịch sử nước nhà
Hào hùng quá khứ hiện ra dưới đèn
Thăng trầm, vinh nhục bao phen
Máu hồng nhuộm thắm dòng tên đất này
Bốn nghìn năm trước hôm nay
Quốc gia Xích Quỷ([1]) một ngày khai sinh
Có vua, có nước riêng mình
Tiến vào thời đại văn minh, huy hoàng
Kinh Dương Vương sáng tên vàng
Đức Vua Thủy Tổ Nam Bang dựng cờ
Ngàn năm dấu cũ chưa mờ
Đền thiêng vẫn ủ giấc mơ Thuận Thành([2])
Hồng Đăng Ngàn mãi rạng danh
Thủy Tổ Quốc Mẫu phúc dành muôn sau
Trăng kia tròn, khuyết trên đầu
Ân tình vẫn nặng trái bầu đền Tiên([3])
Ngôi vua con nối, cha truyền
Núi sông kết mối tơ duyên Tiên Rồng
Âu Cơ sánh với Lạc Long
Trăm con chung bọc trứng hồng nở ra
Nửa về biển cả cùng cha
Nửa theo chân mẹ, bóng nhòa rừng xanh
Công Cha, nghĩa Mẹ sinh thành
“Đồng bào” - Lời cháu con dành gọi nhau
Xưa Người mang nặng, đẻ đau
Cho nòi giống Việt truyền sau muôn đời
Hiền Lương tiễn mẹ về trời
Mái đền lưu dấu cho người khói hương
Nối ngôi: Con trưởng Hùng Vương
Bài ca dựng nước thêm chương, tiếp vần
Nước nhà thêm vững bước chân
Đường vào lịch sử mùa Xuân huy hoàng
Mười tám đời họ Hồng Bàng
Kế nhau vương quốc Văn Lang trị vì
Chọn nơi xây đắp kinh kỳ
Phong Châu ngày ấy - Việt Trì hôm nay
Đất linh Trời khéo sắp bày
Ba con sông lớn về đây hợp dòng
Trập trùng Tam Đảo sườn Đông
Ba Vì chót vót mây lồng trời Tây
Trăm gò đất tạc voi bày
Chầu vua phủ phục, đầu quay về thành
Ngàn năm còn đó bức tranh
Con voi phản phúc ô danh muôn đời
Ngã ba sông nước đầy vơi
Ẩn mình Anh Vũ, trắng trời hạc bay
Hình sông, thế núi nơi này
Đế đô khởi thủy vận may nước nhà
Lầu son, gác tía nguy nga
Cây xanh tỏa bóng, cỏ hoa thắm màu
Đền Tiên vẳng tiếng hát chầu
Ngợi ca Quốc Mẫu, nguyện cầu ấm no
Mồ hôi thánh thót bên lò
Trẻ già làng Cả chăm lo đúc đồng
Cuốc, cày, công cụ nhà nông
Trống thiêng tế lễ tổ tông, Đất Trời
Mũi tên, ngọn giáo sáng ngời
Vòng tay, chuỗi hạt cho người làm duyên
Chữ Khoa Đẩu tự cổ truyền
Nước mình thuở ấy mọi miền dùng chung
Người Kinh, người Thái, Tày, Nùng…
Tiếng nào vần ấy, cách dùng khác đâu
Lớp, trường trên đất Phong Châu
Trò đông, thầy giỏi đứng đầu Văn Lang
Giờ đây tên đất, tên làng
Nơi kinh đô cũ còn mang trên trường([4])
Dân mình thời đại Hùng Vương
Giỏi săn bắt lại thạo đường canh nông
Nơi nơi lúa nước cấy trồng
Cánh cò kết với ruộng đồng từ đây
Con trâu làm bạn với cày
Nếp thơm đã hóa bánh dầy, bánh chưng
Con thoi khung cửi không ngừng
Dệt nên tấm vải dưới vừng trăng khuya
Con tằm lên ở nong nia
Tơ vàng rút ruột sẻ chia cho người
Tháng năm theo lịch trăng trời
Tâm tình đã thốt nên lời văn chương
Điệu Xoan nhắn gửi người thương
Nghe câu Ghẹo cũng vấn vương đợi chờ…
Đất Lâu Thượng thuở bấy giờ
Là nơi cung điện nhà vua các đời
Lạc Hầu, Lạc Tướng khắp nơi
Về đây hội họp, vua tôi luận bàn
Việc dân, việc nước chu toàn
Cung tên nai nịt thành đoàn thợ săn
Đấu cùng beo, gấu, hùm, trăn…
Rừng sâu, thú dữ khôn ngăn anh hùng
Nắng trưa, mát rượi giếng Rùng
Vua tôi hể hả múc chung một gầu
Thảnh thơi bát nước, miếng trầu
Chan hòa đâu khác bạn bầu, đệ huynh
Đường về qua ngả Bối Linh
Vang vang tiếng mõ, câu kinh Di Đà
Đẹp thay đạo Mẫu nước ta
Dạy con người biết thuận hòa, yêu thương
Trần gian sẽ hóa thiên đường
Một khi người khắp bốn phương rộng lòng
Ngắm đôi câu trắng lượn vòng
Nhẹ nhàng sà xuống đậu trong sân chùa
Niềm vui tràn ngập lòng vua
Rộn ràng theo vó ngựa khua trên đường…
Kế sau thời đại Hùng Vương
Tới vua Thục giữ kỷ cương nước nhà
Kinh kỳ dời đến Cổ Loa
Dựng xây thành ốc, chế ra nỏ thần
Lỗi lầm một cuộc hôn nhân
Mỵ Châu - Trọng Thủy ái ân không tròn
Đường cùng, dứt nghĩa cha con
Oan tình máu đỏ kết hòn ngọc trai
Bởi ai? Ai biết trách ai
Ngẩn ngơ tượng gỗ so vai, không đầu([5])
Ngàn năm trước, mãi muôn sau
Chuyện tình công chúa Mỵ Châu luận đàm
Triệu Đà giành được nước Nam
Triều vua này sử ít bàn xưa nay
Hưng vong trời đã sắp bày
Ngai vàng nhà Triệu truyền tay năm đời
Một trăm bốn chín năm trời
Nước Nam Việt vẫn thuộc người Việt ta
Cuối thời Triệu, tướng Lữ Gia
Cuộc đời là bản trường ca bi hùng
Gò Hào máu thắm lòng trung
Nắm xương Cắc Cớ([6]) thức cùng núi sông
Vơi chăng nỗi hận chất chồng
Mỗi mùa Xuân tới, Tràng Đông hội làng?
Triệu Vương để mất ngai vàng
Khi quân nhà Hán tràn sang đất này
Cuộc đời nô lệ đắng cay
Sống lầm than dưới gót giày ngoại bang
Mây che cố quốc Văn Lang
Lưỡi gươm hòng dập hào quang Lạc Hồng
Binh đao muốn át trống đồng
Đất trời uất hận, núi sông nghẹn ngào
Nước mình kho báu trời trao
Kẻ thù mặc sức vơ vào túi tham
Sừng tê, vàng bạc, ngọc lam
Ngà voi, đá đỏ, kỳ nam, hương trầm…
Nỗi đau non nước khôn cầm
Đại ngàn gió thét, sóng gầm bể khơi
Giặc kia không đội chung trời
Nước non đau đáu đợi người dấy binh
Bấy giờ miền đất Mê Linh
Với dòng sông Cái([7]) uốn mình chảy qua
Hừng đông Tam Đảo non xa
Trời Tây chênh chếch trăng ngà Tản Viên
Chủ nhân: Lạc tướng uy quyền
Tiếng tăm vang dội khắp miền gần xa
Hùng Vương vốn gốc họ nhà
Ơn cha nuôi mới đổi là họ Trưng
Tung trời một cánh chim ưng
Lướt trên biển lúa, núi rừng quê hương
Phu nhân Mèn Thiện yêu thương
Song toàn văn võ đường đường thua ai
Bầy con hai gái một trai
Tươi xinh tựa mấy bông lài sương sa
Trắc là chị cả trong nhà
Nhị thứ hai tới Ún Ba rốt lòng
Tháng ngày êm ả thong dong
Còn chi hơn thế mà mong ở đời
Ai hay sâu thẳm lòng người
Nỗi đau non nước nhủ lời thiết tha
Làm sao giành lại sơn hà
Xây nền độc lập nước nhà Văn Lang?
Tiên Rồng nòi giống vẻ vang
Cớ chi mãi chịu thuộc bang chư hầu?
Ngày dài lại tới đêm thâu
Nỗi niềm Lạc tướng mái đầu sương sa.
Bao lần gươm báu tuốt ra
Ngắm nhìn rồi lại vách nhà treo lên
Bao lần chuốt lại ống tên
Giương cung bắn thử lên nền trời xanh
Tên đồng xé gió lao nhanh
Ước chi trước mặt lũy thành Luy Lâu([8])
Giao du kết bạn kết bầu
Xa gần vẫn một nỗi đau thế thời
Làm thân Lạc tướng ở đời
Để tên Thái thú nước người cầm cương
Bàn tay đô hộ bạo cường
Cắt chia non nước Hùng Vương ngàn đời
Nhật Nam, Giao Chỉ,… hỡi ôi!
Dòng tên nô lệ ngậm ngùi xót xa
Nước ta phải trả về ta
Đất này sẽ nổi phong ba có ngày.
(Còn nữa)
[1] Xích Quỷ: Tên quốc gia sơ khai đầu tiên do Kinh Dương Vương đặt ra.
[2] Tại huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh ngày nay vẫn còn đền thờ Kinh Dương Vương.
[3] Trên cửa Võng đền Tiên thuộc đền Tiên Cát, thành phố Việt Trì, nơi thờ mẫu Hồng Đăng Ngàn là hoàng hậu của Kinh Dương Vương có khắc hình tượng dây bầu sai quả dựa theo truyền thuyết của dân tộc Mường kể rằng: Trong đại nạn hồng thủy, nhờ có trái bầu khô làm thuyền mà con người cùng các loài vật, cây cỏ đã được cứu thoát.
[4] Chỉ các thôn Tràng Đông, Tràng Nam tại xã Lâu Thượng.
[5] Chỉ tượng Mỵ Châu không đầu tại đền Cổ Loa (Hà Nội).
[6] Tức hang Cắc Cớ tại chùa Thầy, Quốc Oai, Hà Nội - nơi có bể hài cốt người, tương truyền là hài cốt quân sĩ Lữ Gia tử trận.
[7] Sông Cái: Tức sông Hồng ngày nay.
[8] Luy Lâu: Thủ phủ của quận Giao Chỉ thời Bắc thuộc, thuộc Bắc Ninh ngày nay.
Người post: HoaNT
Ngày đăng: 14-07-2017 22:10
COMMENTS CỦA THÀNH VIÊN |
Xem 1 - 3 của tổng số 3 Comments
|
Tổng số bài và comment post theo từng khoa
Khoa | Bài viết | Comment |
Sinh | 563 | 9482 |
Lý | 387 | 2824 |
Hóa | 882 | 9765 |
Luật | 721 | 11647 |
Toán | 66 | 376 |
Kinh tế | 4 | 108 |
Câu Lạc Bộ | 30 | 1 |
NCS | 3 | 70 |
Bạn bè | 197 | 1189 |
Dự bị | 0 | 0 |
Ngôn ngữ | 2 | 2 |
10 người post bài nhiều nhất
User | Số bài viết |
TungDX | 289 |
NghiPH | 306 |
NgocBQ | 130 |
ThaoDP | 108 |
CucNT | 123 |
CoDM | 88 |
PhongPT | 73 |
HaiNV | 93 |
LiTM | 85 |
MinhCK | 70 |
10 người comment nhiều nhất
User | Comment |
Guest | 7169 |
NghiPH | 3219 |
LiTM | 1879 |
HaiNV | 1853 |
KhanhT | 1743 |
CucNT | 1718 |
TungDX | 1565 |
ThanhLK | 1545 |
VanNH | 1441 |
ThoaNP | 1257 |