Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến
Tác giả: Tự sướng đào ngũ
Cửa đền Mẫu chiều mùng 6 Tết Nhâm Thìn
Mùng 6 Tết Nhâm Thìn tôi về quê họp họ.
Quê tôi, mà đúng ra là quê bố tôi, là một làng quê ở huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Nói quê tôi, hay quê bố tôi là có những ẩn ý khác nhau. Tôi sinh ra tại Nghệ An, quê mẹ tôi. Bố tôi khi đó là bộ đội Quân khu 4, bố mẹ tôi gặp nhau sau hòa bình kháng chiến chống Pháp tại Nghệ An. Ba tuổi tôi cùng gia đình ông bà ngoại ra Hà Nội. Tôi về quê lần đầu là năm 1989, khi đã 33 tuổi. Khi đó bố tôi mới về hưu. Vì nhiều lý do, trong đó có việc ông bà nội tôi đã mất trong một trận càn của Pháp, các anh chị em ruột không còn ai ở quê, nên bố tôi rất ít về quê. Còn tôi chẳng có khái niệm quê quán gì cả. Tôi vẫn coi tôi là người Hà Nội chính cống. Tôi lớn lên ở Hà Nôi, là học sinh Dịch Vọng, Chu Văn An chứ có phải tầm thường đâu. Rồi bỗng nhiên Tết 1989, bố tôi nói năm nay 2 bố con về quê dự họp họ. Đó là lần đầu tiên tôi về thăm quê (bố tôi), một làng ven sông Hồng.
Chừng ấy năm Tết nào tôi cũng về quê dự họp họ. Gọi là họp họ, nhưng việc chủ yếu là các cụ tổng kết năm nay thêm bao nhiêu suất đinh (tức có bao nhiêu cháu trai họ Bùi sinh ra trong năm vừa qua). Mỗi suất đinh mới phải góp tiền tương đương 5 cân thóc vào cho họ. Cái tục từ bao đời vẫn được giữ nguyên, cho dù bây giờ giá trị 5 cân thóc không còn nhiều giá trị như khi xưa. Rồi các cụ quyết toán thu chi năm vừa rồi, hoặc thảo luận vài việc như dự định xây cất, sửa sang gì đó không (năm nay họ tôi xây lại mộ tổ), hoặc sắm thêm thứ này, thứ nọ cho nhà thờ họ. Xong xuôi rồi đánh chén, cỗ năm nào cũng giống năm nào: gà luộc, miến, xu hào xào thịt và xôi đỗ. Họ Bùi tôi ở quê không phải là họ lớn trong xã, khi ăn cỗ chỉ chừng 10 mâm. Họ tôi vẫn giữ tục lệ là chỉ có con trai đi họp họ. Từ khi về thường xuyên, bố tôi có nêu ý kiến để các chị, các bà cùng dự họp họ. Các cụ nhất trí nhưng năm nào cũng chỉ có một mâm phụ nữ. Các chị, các bà nấu cỗ nhưng chỉ ăn ở bếp, hoặc không ăn. Chẳng thấy phong trào nữ quyền trong họ tôi, dù đã bước sang thập kỷ thứ 2 của thế kỷ 21 rồi.
Với tôi ngoài dự họp họ, tôi còn có việc quan trọng là ra mộ thắp hương cho ông nội và cụ nội tôi.
Tôi giãi bày mấy suy nghĩ ở đây để muốn đề cập tới khái niệm quê quán. Hiện nay khai lý lịch vẫn có một dòng về quê quán. Nhưng tôi đã hỏi cán bộ tổ chức cán bộ, họ cũng không có một định nghĩa rõ ràng về khái niệm quê quán. Nơi sinh hiển nhiên không hẳn là quê. Nếu nói rằng quê lấy theo bố, thì cũng không rõ ràng, vì nếu suy luận theo logic toán học, tất cả người Việt chỉ có 1 quê là đất Phú Thọ của vua Hùng. Và nếu con tôi hỏi chúng là quê ở đâu, chúng cũng chỉ lắc đầu trả lời"không biết", chúng và bố chúng đều người Hà Nội..
Năm nay hai vợ chồng tôi sau khi xong việc họ đã quyết định đi thăm thành phố Hưng Yên, cũng là tỉnh lỵ của Hưng Yên. Chừng ấy năm nhưng tôi chưa thăm thị xã Hưng Yên, mới được lên thành phố 3 năm nay. Từ quê tôi đến Tp Hưng yên chừng 12 km.
Lịch sử Phố Hiến.
Hẳn ai trong chúng ta cũng được nghe đến câu "Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến".
Phố Hiến chính là một địa điểm thuộc Tp Hưng Yên hôm nay.
Wikipedia tiếng Việt đã viết: "Phố Hiến là một địa danh lịch sử ở thành phố Hưng Yên. Vào các thế kỷ 17-18, nơi đây là một thương cảng cổ nổi tiếng của Việt Nam. Lúc ấy, phố Hiến là một đô thị trải dài theo bờ tả ngạn sông Hồng. Ngoài kinh đô Thăng Long - Kẻ Chợ là thủ đô phồn vinh nhất nước, Phố Hiến đã là một đô thị nổi bật đứng ở vị trí thứ hai. Dân gian có câu: “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Văn bia chùa Thiên ứng, dựng năm Vĩnh Tộ thứ 7 (1625) đã ghi: “Phố Hiến nổi tiếng trong bốn phương là một tiểu Tràng An” - tức một Kinh đô thu nhỏ.
Ngay từ thế kỷ 10, vùng Đằng Châu ở phía bắc thành phố Hưng Yên ngày nay vốn là một lãnh địa của sứ quân Phạm Bạch Hổ, đến thời Tiền Lê là thực ấp của Lý Công Uẩn. Thế kỷ 13, dưới thời nhà Trần, khi nhà Nguyên diệt Tống, một số kiều dân Trung Quốc tị nạn đã kéo sang Việt Nam, lập nên làng Hoa Dương. Cùng lúc đó, một số người Việt từ nhiều địa phương khác nhau cũng dần dần đến sinh sống tại địa điểm tụ cư này để buôn bán và làm ăn.
Có nhiều khả năng là tên gọi Phố Hiến lần đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ 15 trong công cuộc cải cách hành chính của vua Lê Thánh Tông. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ 17, Phố Hiến mới trở thành một trung tâm chính trị - kinh tế có nhiều mối giao lưu quốc tế. Lúc này, ở Phố Hiến có lị sở của trấn thủ xứ Sơn Nam, ty Hiến sát xứ Sơn Nam, các trạm tuần ty kiểm soát thuyền bè trong ngoài nước, một đoạn sông tấp nập các thuyền bè đi lại và đỗ bến, những chợ phố đông đúc, các thợ thủ công và thương nhân người Việt, người Hoa, Nhật Bản và phương Tây: Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp".
Thời Lê sơ, xung quanh Thăng Long là 4 xứ (sang thời Tây Sơn đổi thành trấn, đến thời Minh Mạng mới hình thành các tỉnh gần như bây giờ), bao gồm:
- Xứ Kinh Bắc: bao gồm toàn bộ ranh giới hiện nay 2 tỉnh Bắc Giang,Bắc Ninh và một phần nhỏ các tỉnh thành lân cận là bắc Hà Nội (Gia Lâm, Long Biên, Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn); Hưng Yên (Văn Giang, Văn Lâm) và Lạng Sơn (Hữu Lũng);
- Xứ Đông (trấn Hải Dương): bao gồm Hải dương, một phần Hải Phòng ngày nay;
- Xứ Đoài (trấn Sơn Tây): bao gồm Sơn Tây, một phần Phú Thọ ngày nay;
- Xứ Sơn Nam:. bao gồm tỉnh Hà Nam, Nam Định, Hưng Yên, Ninh Bình, Thái Bình, một phần của Hà Nội, và một phần Hải Phòng ngày nay.
Phố Hiến nằm ở trung tâm xứ Sơn Nam., thông thương đường thủy với Thăng Long (Kẻ Chợ), với các sông Hồng, sông Đáy, sông Thái Bình để đến hầu hết các địa điểm thương mại của Đàng Ngoài.
"Khu phường phố là khu định cư của người Việt và các kiều dân ngoại quốc (chủ yếu là người Hoa) sản xuất và buôn bán với tính chất cố định ở Phố Hiến. Dựa theo các văn bia ở chùa Hiến (1709) và chùa Chuông (1711), Phố Hiến thời đó có khoảng 20 phường. Qua các bi ký, có thể đọc được 13 phố và 32 tên cửa hiệu buôn bán như các Tân Thị, Tân Khai, Tiên Miếu, Hậu Trường…
Trong thế kỷ 17, có hai thương điếm phương Tây đã được dựng lên ở Phố Hiến: thương điếm Hà Lan (1637-1700) và thương điếm Anh (1672-1683). Đây là văn phòng đại diện kiêm nhà kho của các Công ty Đông Ấn của Hà Lan và Anh. Đây là một quần thể kiến trúc được xây bằng gạch, nằm ở phía dưới Phố Hiến, quãng gần thôn Nễ Châu và Vạn Mới. Từ thế kỷ 18, quần thể kiến trúc này đã bị huỷ hoại trở thành đồng ruộng.".
Thời cực thịnh của phố Hiến là thế kỷ 18. Sau đó Trung Hoa, Nhật Bản mở cửa khai thông với phương Tây, kinh đô chuyển vào Huế, vai trò của phố Hiến giảm sút mạnh và sau này chỉ là thị xã Hưng Yên.
Giống như Hội An ở Đàng Trong, Phố Hiến là một văn hóa đã sắc tộc cả Á lẫn Âu, cả kiến trúc cũng như dân cư. Tiếc rằng trả qua chiến tranh liên miên (các cuộc khởi nghịa thời chúa Trịnh, chiến tranh thời Tây Sơn), cộng với lũ lụt thiên nhiên, kiến trúc cổ phố Hiến không còn được lưu lại.
Du Xuân các đền, chùa Tp Hưng Yên
Chúng tôi liên hệ trước với anh Tùng, cán bộ quản lý của Son Nam Resort. Có một anh bạn trước từng ở FPT đang làm TGĐ của khu resort này. Chính anh ta đã gợi ý tôi ghé thăm Tp Hưng Yên.
Chúng tôi đến Son Nam Resort là khoảng 2h chiều. Tùng dẫn chúng tôi thăm khu resort, nằm ở cuối đường Phạm Ngũ Lão. Là một người từng đoạt giải nhì Olymlic Toán quốc tế năm 1978, Tùng tỏ ra rất ham mê văn hóa của Phố Hiến và thuộc rất nhiều lịch sử của khu vực Hưng Yên.
Son Nam Resort do một số tư nhân đầu tư, có nhiều hạng mục nhà nghỉ, khách sạn, nhà hội thảo, khu giải trí thể thao, vườn cây. Trong resort còn có một hồ nước, Tùng kể rằng đó là cái hồ hình thành sau một trậnh vỡ đề sông Hồng, nước sông tràn vào, rồi thành hồ nước. Đây cũng là resort ít gặp ở đồng bằng Bắc Bộ, vốn chỉ có ruộng, còn bờ biển thì không được ưu đãi như miền Trung.
Chiều mùng 6 Tết, Tùng dẫn chúng tôi đi xem chừng hơn 10 đền, chùa ở Tp Hưng Yên. Tôi cũng không nhớ hết, chỉ xin kể ra dưới đây một vài nơi mà tôi nhớ sâu đậm hơn cả:
Chùa Hiến
Tại đây nổi bật nhất là có cây nhãn lồng tổ, tương truyền đã được 300 năm tuổi.
Cây nhãn tổ trong chùa Hiến
Đền Mây
Nơi đây thờ Tướng quân Phạm Bạch Hổ (910-972), một võ tướng trải qua các triều từ Dương Đình Nghệ đến triều Ngô, triều Đinh. Ông là hào trưởng đất Đằng Châu, thuốc thị xã Hưng Yên bây giờ. Ông là tướng của Dương Đình Nghệ, tham gia việc đánh đuổi quân Nam Hán giành độc lập. Sau ông theo Ngô Quyền và tham gia đánh trận Bạch Đằng lịch sử (938). Sau đó ông cầm đầu một trong 12 xứ quân, rồi theo Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp các xứ quân khác, lập nước Đại Cồ Việt. Ông mất năm 972.
Trước cổng đền Mây còn lưu giữ cây si nghìn tuổi, được gọi là “cây tướng quân” để tưởng nhớ đến Phạm Bạch Hổ.
Đền Mây và cây cổ thụ "Tướng quân" nghìn năm tuổi
Chùa Chuông
Một trong những chùa đẹp nhất của Hưng Yên, “Chùa Chuông - Phố Hiến đẹp nhất danh lam”. Theo truyền thuyết vào một năm đại hồng thủy, có một quả chuông vàng trên một chiếc bè trôi vào bãi sông thuộc địa phận thôn Nhân Dục, tổng An Tảo, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên xưa (nay thuộc phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên). Các nơi đua nhau kéo chuông về địa phương mình nhưng không được. Chỉ có những bô lão thôn Nhân Dục mới kéo được chuông. Dân làng cho là trời Phật giúp đỡ bèn góp công của dựng chùa, xây lầu treo chuông. Mỗi lần đánh chuông, tiếng vang xa hàng vạn dặm. Các vật quý của người Việt bị người phương Bắc lấy khi nghe tiếng chuông đều nổi dậy đòi về phương Nam. Do vậy chùa có tên gọi là Kim Chung Tự (chùa chuông vàng), tên thường gọi là chùa Chuông.
Chùa Chuông
Văn miếu Xích Đằng
Hiện nay cả nước có 6 văn miếu: Văn miếu Quốc Tử Giám, Văn miếu Huế, Văn miếu Hưng Yên, Văn miếu Hải Dương, Văn miếu Bắc Ninh, Văn miếu Đồng Nai. Văn Miếu Hưng Yên còn gọi là Văn miếu Xích Đằng (vì được xây dựng trên đất làng Xích Đằng), nguyên xưa là Văn Miếu của Trấn Sơn Nam.
Hiện vật quý giá nhất của Văn miếu Hưng Yên là 9 tấm bia đá khắc tên tuổi, quê quán, chức vụ 161 vị đỗ đại khoa ở Trấn Sơn Nam thượng ngày xưa (trong đó tỉnh Hưng Yên có 138 vị, tỉnh Thái Bình 23 vị) thuộc các triều đại Trần, Mạc, Lê đến Nguyễn. Học vị cao nhất là ba Trạng nguyên Tống Trân; Trạng nguyên Nguyễn Kỳ triều Mạc; Trạng nguyên Dương Phúc Tư triều Lê. Chức vụ cao nhất là tiến sĩ Lê Như Hổ, Quận công triều Mạc.
Văn miếu Hưng Yên
Đền Mẫu
Khi quân Nguyên Mông đánh chiếm Trung Quốc, người Trung Hoa trôi dạt xuống phía Nam, đến Hưng Yên bây giờ thánh lập làng người Hoa, gọi là làng Hoa Dương. Dương Quý Phi chạy giặc, khi bị bắt đã tự vẫn ở biển, trôi dạt về phương Nam, dân làng Hoa Dương được báo mộng là trôi dạt về đến sông Hồng, làng Hoa Dương. Dân làng đã lập đền để thờ bà.
Trong đến có một cây cổ thụ 700 năm tuổi, kết hợp cây đa, cây xanh và cây si, có 3 thân rễ rất to, trông rất lạ mắt.
Đền Mẫu với cây cổ thụ 3 thân rễ 700 năm tuổi
Đền Trần
Tương truyền đất Hưng Yên là Đại bản doanh của Trần Hưng Đạo trong một thời gian của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Vua Trần cũng đã ở đây một ngày, sau đó đi tiếp ra biển lánh giặc. Triều đình đã để lại một vạn quân do Trần Bình Trọng chỉ huy đóng ở bên kia sông (đất Hà Nam) để cản đường tiến của quân giặc. Khi bị bắt, Trần Bình Trọng đã khảng khái nói trước khi bị chặt đầu “Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Sau đó quân giặc đã cho bêu đầu ông bên này sông, đất Hưng Yên. Hưng Yên cũng là chiến trường giao tranh ác liệt khi quân ta phản công quân giặc.
Trần Hưng Đạo là một anh hùng kiết xuất của dân tộc. Ông được thờ khắp nơi trên Tổ quốc Việt Nam.
Đền Trần Hưng Yên
* ** * ** *
Đến 5h30 chiều chúng tôi kết thúc viếng đền chùa đất Phố Hiến, dù còn nhiều nơi khác mà Tùng chưa kịp giới thiệu cho chúng tôi. Đi với Tùng chúng tôi thấy anh thực sự là một pho sử sống.
Hội An, thương cảng nổi tiếng của Đàng Trong, vẫn còn giữ được kiến trúc độc đáo và là 1 điểm du lịch tuyệt vời, được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Phố Hiến tuy không giữ được kiến trúc cổ, nhưng hơn Hội An là vẫn giữ được hồn Việt. Quanh khu vực Tp Hưng Yên có tổng cộng khoảng 120 đền chùa. Hồn Việt thể hiện qua những di tích đó. Nghe nói mới đây phía Ba Lan đã đồng ý tài trợ một chương trình phục hồi Phố Hiến, hy vọng qua đó danh tiếng Phố Hiến không chỉ đọng trong ký ức dân gian, trong tài liệu sử sách.
Tôi còn nhiều điều chưa khám phá về mảnh đất Hưng Yên, nơi đây cũng là quê hương của Nguyên phi Ỷ Lan, của Hải Thượng Lãn Ông, của Phạm Ngũ Lão, của Tán Thuật với khởi nghĩa Bãi Sậy, của cố TBT Nguyễn Văn Linh. Kỵ tôi, Bùi Quang Diệu, từng là nghĩa quân Bãi Sậy.
****Bài viết sử dụng nhiều tư liệu trên mạng và lời kể của Tùng
Người post: NgocBQ
Ngày đăng: 13-02-2012 01:01
COMMENTS CỦA THÀNH VIÊN |
|
Tổng số bài và comment post theo từng khoa
Khoa | Bài viết | Comment |
Sinh | 563 | 9482 |
Lý | 387 | 2824 |
Hóa | 882 | 9765 |
Luật | 721 | 11647 |
Toán | 66 | 376 |
Kinh tế | 4 | 108 |
Câu Lạc Bộ | 30 | 1 |
NCS | 3 | 70 |
Bạn bè | 197 | 1189 |
Dự bị | 0 | 0 |
Ngôn ngữ | 2 | 2 |
10 người post bài nhiều nhất
User | Số bài viết |
TungDX | 289 |
NghiPH | 306 |
NgocBQ | 130 |
ThaoDP | 108 |
CucNT | 123 |
CoDM | 88 |
PhongPT | 73 |
HaiNV | 93 |
LiTM | 85 |
MinhCK | 70 |
10 người comment nhiều nhất
User | Comment |
Guest | 7169 |
NghiPH | 3219 |
LiTM | 1879 |
HaiNV | 1853 |
KhanhT | 1743 |
CucNT | 1718 |
TungDX | 1565 |
ThanhLK | 1545 |
VanNH | 1441 |
ThoaNP | 1257 |