THỊT CHÓ VÀ GIẢI PULITZER
Tác giả: 3Chai
Ảnh: TS Nguyễn Nhã tặng bản đồ cổ “An Nam Đại Quốc Họa Đồ” cho bà Cố Lập Quần, Phó Tổng Thư Ký Hiệp Hộp Nhiếp Ảnh TQ, khoảng 2009. Bản đồ này do một người nước ngoài, giáo sĩ Jean-Loui Taberd vẽ 1838, trình bày “Parasel seu Cát Vàng” thuộc xứ An Nam.
Gần đây cư dân mạng Việt xôn xao vì bài báo của ngài Joel Brinkley, giảng viên khoa báo chí ĐH Stanford. Mặc dù nhà báo Mỹ đã ngỏ lời xin lỗi, câu chuyện có vẻ chưa hết nóng.
http://thethaovanhoa.vn/dien-dan-van-hoa/nghi-ve-loi-xin-loi-cua-vi-gs-my-doat-giai-pulitzer-n20130218081113536.htm
Các bạn quan tâm đến Hoàng Sa-Trường Sa chắc cũng nghe tiếng TS Nguyễn Nhã là một nhà nghiên cứu tiên phong về lịch sử xác lập chủ quyền Việt Nam với 2 quần đảo này. Tôi được biết bác Nhã cũng là tác giả của ít nhất là 3 bộ sách chuyên khảo rất công phu về văn hóa ẩm thực Việt.
Tôi vừa hân hạnh nhận được từ bác Nhã một bài viết nhân bài của Ngài Brinkley. Xin chia sẻ lại cùng bạn đọc nguoiKGU.
Mạn phép bác Nhã, tôi đặt lại tiêu đề bài cho ngắn gọn, dễ hiểu hơn.
***
THỊT CHÓ VÀ GIẢI PULITZER
(MỘT BÀI BÁO CỦA MỘT NHÀ BÁO TỪNG ĐOẠT GIẢI PULITZER TỪNG DẠY BÁO CHÍ TẠI ĐẠI HỌC DANH TIẾNG STANFORD ĐÁNG CHO NGƯỜI VIỆT CHÚNG TA SUY NGHĨ)
* Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, tiến sĩ sử học
( Trưởng Đề án Bếp Việt, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu ẩm thực Việt Nam)
TỪ PHẢN ỨNG NHỮNG NHẬN THỨC SAI CỦA ÔNG JOEL BRINKLEY
Sau 10 ngày du lịch ở Việt Nam, ông Joel Brinkley, vốn từng là phóng viên tờ New York Times và từng đoạt giải Pulitzer (giải thưởng báo chí danh giá nhất tại Mỹ), hiện đang là người dạy chuyên ngành báo chí tại đại học Stanford đã viết bài tựa“Despite increasing prosperity, Vietnam's appetites remain unique (tạm dịch: Dù ngày một khấm khá, khẩu vị ở Việt Nam vẫn độc nhất vô nhị) trên tờ báo lớn Chicago Tribune ngày 29.1-2013.
Sự phẫn nộ của dư luận chắc sẽ không đến thế nếu ông Joel Brinkley không phải là người đoạt giải báo chí danh tiếng, đang dạy học tại một đại học danh tiếng viết cho tờ báo danh tiếng.
Tìm hiểu lịch sử văn hóa của một dân tộc, bản sắc của một dân tộc cực kỳ khó khăn có khi để cả đời chưa chắc đã hiểu thấu đáo, vậy mà chỉ 10 ngày du lịch, ông Brinkley đã mở đầu bài viết khoảng 900 từ như sau:
“Ở Việt Nam, bạn dễ dàng nhận thấy những điều bất thường. Bạn không nghe tiếng chim hót, không thấy sóc leo cây hay chuột lục lọi trong những đống rác. Thậm chí, cũng chẳng có con chó nào chạy rông.
“Thực tế, hầu như bạn không thấy được một con thú hoang hay thú nuôi nào cả. Chúng đi đâu cả rồi? Bạn có thể ngạc nhiên khi biết rằng: chúng đều bị ăn thịt cả”.
Cái sai không chỉ ở chỗ vội kết luận không thấy thú hoang, thú nuôi nào cả ở những nơi ông đi qua 10 ngày hay cũng đã 4, 5 lần hay hơn nữa, chắc chắn cũng không thể đi nhiều nơi và chắc chắn cũng chỉ ở thành phố là chủ yếu mà còn sai ở chỗ vội suy diễn do bị ăn thịt, nhất là ông thấy vài hiện tượng như ông kể sau đó ông thấy những xe vận tải chở đầy chó đi bán hay có thể ông thấy cửa hàng bán thịt chó, treo những con chó bị làm thịt .
Cái sai là nhận thức mang tính sự phân biệt văn hóa, sự phân biệt chủng tộc. Mỗi dân tộc có nền văn hóa lịch sử riêng, khác biệt nhau, không thể dân kiêng thịt bò phê phán dân thích ăn thịt bò hay dân kiêng thịt heo phê phán dân thích thịt heo. Cũng vậy dân nào thích ăn thịt chó, thịt chuột...phải tìm hiểu loại chó, chuột nào, tại sao dân ấy lại thích...
Cái sai nghiêm trọng nhất của ông khi ông so sánh với các dân tộc Đông Nam Á suy diễn một cách võ đoán rằng người Việt, dân tộc Việt hiếu chiến với “17 cuộc chiến tranh với Trung Quốc kể từ khi giành được độc lập hơn 1.000 năm trước và đã xâm chiếm Cambodia vô số lần và gần đây nhất là vào năm 1979 vừa qua” vì thích ăn thịt chó, thịt chuột hay thịt chim, thịt mèo…!
Dư luận đã có nhiều người chỉ trích bài báo đã nói quá việc ăn thịt động vật tại Việt Nam, "thiếu thông tin và đầy cảm tính" hay ông Brinkley quá "hồ đồ, trịch thượng và phân biệt chủng tộc". Không chỉ người Việt Nam phản ứng trước bài viết “đụng chạm” đất nước mà ngay cả nhiều người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam hay tại Mỹ hoặc ở các nước khác cũng lên tiếng phản đối kịch liệt. Graeme Nye (Tp.HCM) cho biết: “Tôi là một người Anh đang sống ở Việt Nam. Tôi từng là nhà nghiên cứu ở Hạ nghị viện và Quốc hội Canada. Quan điểm của Joel Brinkley thật thiển cận và ít sự nghiên cứu”.
Bà McElwee kết luận“Quy chụp cả đất nước Việt Nam “có khuynh hướng hung hăng” dựa trên những nhận xét sai lầm (các nước khác ở Đông Nam Á không gặp vấn đề nào về động vật hoang dã), những câu chuyện nghe kể lại (chó thỉnh thoảng bị ăn cắp bán cho quán ăn), tin vào những hiện tượng tâm lý tầm phào (ăn thịt làm người ta hung hăng hơn). Làm báo như vậy thì yếu về nghiệp vụ quá”. Trong bài viết trên blog cá nhân của mình, độc giả Michael nói trên khẳng định: “Đây là bài viết về Việt Nam tệ nhất mà tôi từng đọc. Lệch lạc và đầy xúc xiểm. Thật bất mãn khi một nhà báo danh tiếng lại đứng tên một bài viết như thế; nhưng có lẽ còn tệ hơn nữa là một ấn phẩm cũng lớn không kém lại cho đăng bài viết đó”. Cũng theo nguồn tin của báo Thanh Niên, một số sinh viên Việt Nam tại Đại học Stanford (nơi ông Joel Brinkley giảng dạy) đang có kế hoạch thảo một bức thư phản hồi về bài viết gửi đến ông Joel Brinkley cũng như thu thập các chữ ký phản ứng với bài báo này.
Tiến sĩ Naomi Doak, điều phối viên Chương trình sông Mê kông mở rộng – Đông Nam Á thuộc Tổ chức Bảo tồn quốc tế TRAFFIC, nói với Thanh Niên: “Tôi không đồng ý với rất nhiều lập luận của Ông Brinkley về chim và chó tại Việt Nam. Chúng vẫn còn rất nhiều tại đây, chỉ có điều là chim ở trong lồng còn chó thì trở thành thú nuôi. Tôi không tin Ông Brinkley đã nghiên cứu kỹ các nước khác trong khu vực và dành nhiều thời gian tại đó. Nếu đủ kiến thức, ông Brinkley sẽ không cho rằng chỉ mình người Việt Nam ăn thịt chuột và thịt chó luôn là món khoái khẩu tại đây”.
Tuy nhiên, trao đổi với Báo Thanh Niên, ông Brinkley vẫn khẳng
định: “Tôi bảo lưu quan điểm về những gì mình viết ra. Tôi đã dành rất nhiều thời gian để nghiên cứu về các nước trong khu vực. Chính những ai phê phán và lên án bài viết của tôi mới là quá khích”. Dù sau đó với áp lực của hàng ngàn người ký tên đòi đại học Stanford sa thải ông, khi trao đổi với Báo Tuổi Trẻ, ông đã nói lời xin lỗi về bài viết sai sót về Việt Nam rằng ông đã 4, 5 lần đến Việt Nam, đã biết rõ những gì ông tận mắt chứng kiến và đã trò chuyện với nhiều người và cũng có nhiều người viết như thế.
Như thế, người Việt như tôi chắc cần phải suy nghĩ, tại sao vẫn có người như ông Brinkley vẫn không cho mình đã sai lầm mà vẫn cố bảo lưu quan điểm của mình hay đã đành chấp nhận xin lỗi, sai lầm khi bị áp lực quá mạnh khi mình xúc xiểm đến tự ái của cả một dân tộc.Thật sự ông đã chứng kiến những gì và được nghe nói những gì? Có phải chính người Việt Nam như tôi đã có lỗi không làm gì để thuyết phục được ông hay đã có nhiều hiện tượng và có nhiều người nói với ông khiến ông hiểu không đúng? Hay thật sự đã có những hiện tượng xấu nào đó chưa thể hiện được một xã văn minh? Hay ông Brinkley cố tình nghĩ sai để mọi người quan tâm để thực hiện một ý đồ nào đó?
Dù gì đi nữa có những hiện tượng mà ông Brinkley nêu ra không phải không có ở những nơi ông ấy đi qua. Chẳng hạn đúng có một số người Việt nhất là ở Miền Bắc thích ăn thịt chó hay thích món giả cầy, giả thịt chó và một số người Việt nhất là ở Miền Tây Nam Bộ thích ăn thịt chuột, nhưng phải là chuột đồng ở ngoài ruộng lúa ăn lúa gạo. Song chắc chắn không phải người Việt nào cũng thích như thế. Cụ thể trong họ hàng nội ngoại của tôi tới hàng trăm người hiện chẳng ai có từng ăn chứ đừng nói thích ăn thịt chuột và may ra trong trăm người đó thì chỉ vài người từng ăn thịt chó. Và nếu nói rộng ra hàng vạn người tôi quen biết thì may ra cũng chỉ vài người từng ăn thịt chó hay thịt chuột đồng; có người lại còn sợ ăn thịt chó hay thịt chuột đằng khác nữa.
Chắc phải có một cuộc điều tra nghiêm túc xem bao nhiêu người Việt còn thích ăn thịt chó, thịt chuột và những chim hoang dã. Cũng cần phải dẹp bỏ cách trưng bày man rợ như chọc tiết thú vật hay giết chó, thú rừng đang nhan nhản nhiều nơi mà khách du lịch đi qua…
CẦN NGHIÊN CƯU SÂU MỚI CÓ KẾT LUẬN CHÍNH XÁC VỀ VĂN HÓA ẨM THỰC VIỆT, CON NGƯỜI VIỆT
Có điều nếu nghiên cứu sâu lịch sử văn hóa Việt Nam hay hỏi những ai nghiên cứu về ẩm thực Việt Nam, ông Brinkley sẽ vô cùng ngạc nhiên khi biết bữa cơm gia đình Việt Nam từ xưa đến nay ở miền quê ( chiếm từ 80% trở lên dân số cả nước) chủ yếu là cơm rau cá hay dưa cà mắm là cơ bản.Người Việt hầu hết chỉ ăn thịt nhiều vào dịp tết hay giỗ mà thôi.
Nhiều người Việt khi mời khách đến nhà ăn cơm thường nói : xin mời đến ăn cơm rau, tức bữa cơm gia đình bình thường chứ không dám bầy vẽ gì cả để khách không ái ngại mà nhận lời mời.
Trước và sau ngày Cách Mạng tháng Tám năm 1945, tôi còn nhớ rất rõ họ hàng bố tôi nhất là họ mẹ tôi rất lớn vốn là chắt của Hộ bộ thương thư Phạm thận Duật từ thời Vua Tự Đức đến thời vua Hàm Nghi triều Nguyễn mà trong bữa cơm gia đình hàng ngày cũng ít ăn thịt, còn các lực điền, thợ gặt , thợ cấy của gia đình mỗi bữa cơm sáng hay trưa chủ yếu vẫn là ăn rât nhiều cơm với mắm, cà muối và rau, gần như không có thịt.Quê tôi ở Yên Mô Ninh Bình cũng như rât nhiều quê khác khắp miền đất nước có rất nhiều loại chim hoang dã như cò trắng bay từng đàn nay vẫn còn; ở Miền Nam có nơi có cả vườn cò có hàng ngàn con cò ở khắp nơi bay về đậu, người Việt không bao giờ ăn thịt loại chim hoang này.
Còn có những chim hoang như quạ, chèo bẻo, sáo sậu… cũng không bao giờ người Việt ăn thịt song bây giờ còn rất hiếm, thì ra những loại chim này thường ăn sâu bọ ở các bụi rậm, cánh đồng mà nay còn rất ít bụi rậm hay đất hoang và các nông dân dùng quá nhiều thuốc trừ sâu, nên làm gì còn sâu bọ cho thức ăn của các loại chim hoang đó làm sao tồn tại nhiều được.Những nông dân lực điền trên cũng như các anh em họ hàng nhà tôi không ăn thịt nhiều kể cả không ăn thịt chó , chim, thú hoang mà sao họ tham gia binh lính hai bên tích cực chiến đấu trong cuộc chiến kể cả thời kháng chiến chống Pháp và sau này.
Trong thời gian tôi viết bài này, thì nhà văn Từ Quốc Hoài, gốc người Bình Định tập kết ra Bắc năm 1954, người cùng tổ dân phố đến nhà tôi chúc Tết, kể chuyện hồi chiến tranh trong rừng, gạo mang theo không bao nhiêu, mỗi bữa chỉ có vài muỗng cháo, gặp bất cứ con nào là bắt lấy mà ăn. Có một đêm đốt củi rừng sưởi ấm có con dế cơm bay vào, bắt được đem nướng, có 7 nhà văn chia nhau ăn mà cảm thấy khỏe hơn khi chưa ăn một phần con dế cơm ấy. Rừng trong chiến tranh mà ông Brinkley nhắc tới không những đã bị bom đạn tàn phá, con người kiếm sống khỏi chết đói và bây giờ lại có nạn phá rừng thì chim thú hoang dã làm sao mà còn nhiều được.
Cũng khi đang tiếp chuyện nhà văn Từ Quốc Hoài, tôi lại nghe tiếng con sóc kêu đang leo nhảy từ cây mận (roi) xuống bờ tường nhà tôi ở quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh và lại nghe cả tiếng chim kêu trên cành cây mận kể trên.Chẳng là nhà tôi có cây mận cao cũng như gần chùa thường có những buổi phóng sinh chim, nên thường thấy con sóc chạy nhảy hay chim hoang hót, chứ những nhà khác chưa chắc đã thấy hiện tượng trên mà có thể những người khách nước ngoài như Ông Brinkley lại viết rằng chẳng thấy chim hót, sóc chạy nhảy đâu cả và sẽ suy diễn bị con người ăn thịt hết rồi.
Trước khi người Pháp đến chiếm đóng và cai trị Việt Nam, trâu bò bị nhà nước cấm giết nếu không có lý do chính đáng như trâu bỏ già yếu hay cần cúng tế tam sinh, vì trâu bò là sức kéo, canh tác của một nước nông nghiệp. Năm 1885 ở Hà Nội rồi tới Hải Phòng bắt đầu của cả miền Bắc mới có cửa hàng bán thịt bò dành cho người Pháp.
Sau này các thành thị mới có lò mổ động vật và chợ mới bán thịt bò.Cũng chưa có trang trại nuôi bò như ngày nay và cả gà công nghiệp cũng thế mới phát triển gần đây.Vậy thì với ảnh hưởng của văn hóa Phương Tây, nhất là những người sống trong các thành thị mới ăn thịt nhiều trong đó có thịt bò, bởi người ở xứ lạnh rất cần ăn thịt, có người Mỹ tôi đã chứng kiến ăn thịt bò tới 1 ki lô chứ không như người Việt ăn vài trăm gram là nhiều. Cũng nên biết phần lớn các món ăn Việt như phở, chả giò, gỏi cuốn …thường rất nhiều chất, nhiều vị, thịt chỉ qua loa còn phần lớn rất nhiều rau hoặc luôn ăn kèm với rau sống .
Như tôi đã đúc kết khi nghiên cứu về ẩm thực Việt Nam rằng ẩm thực Việt Nam lấy tự nhiên làm gốc vừa ngon vừa lành; rau củ quả cá là chính, rất ít mỡ, ít thịt; cách chế biến chủ yếu là luộc, nấu, nướng, kho, tươi sống là chính, chiên xào, quay rất ít; cách ăn các món ăn luôn cân bằng âm dương, thêm bớt tùy theo cơ thể mỗi người, thường ăn kèm với rau thơm rau sống, gia vị tự nhiên vốn là món ăn bài thuốc, rất lợi cho sức khỏe.
Ẩm thực Việt Nam khác hẳn với ẩm thực Trung Quốc hay Phương Tây, dùng nước mắm để nêm hay chấm các món ăn và riêng nước chấm thì vô cùng phong phú, riêng ẩm thực Huế có hàng chục thứ nước chấm và cả muối cũng hàng chục các thứ muối để chấm và chỉ ăn cơm với muối ấy cũng rất ngon và đủ chất bổ dưỡng. Các món ăn không những ngon lành, lấy tự nhiên làm gốc mà lại thường mang nhiều ý nghĩa và quan trọng đến nỗi được vua cha chọn truyền ngôi như truyền thuyết Hùng Vương sau được các sử gia ghi trong sách sử câu chuyện bánh chưng bánh dầy, hoàng tử Lang Liêu làm, dâng lên vua cha vừa ngon vừa lành,bổ dưỡng và giữ chất tự nhiên của gạo nếp, mùi thơm, màu xanh tự nhiên của lá dong , lại mang ý nghĩa công ơn cha mẹ như trời ( tròn, bánh dầy), đất ( vuông,bánh chưng) thể hiện nền văn hóa Việt, lúa nước khác hẳn văn hóa Hán , lúa mì..
Với hơn 3000 món ăn thuần Việt trong bữa cơm hàng ngày hay tiệc trong giỗ tế, khao vọng khiến người Việt giữ được bản sắc riêng chống đồng hóa dù bị người Hán cai trị hơn 1000 năm. Ăn của người Việt lại là một nghê thuật, một khoa học; món nào vị ấy với gia vị tự nhiên , không lẫn lộn với các món khác.Chẳng hạn như thịt chó , phải là chó nuôi để ăn thịt không phải cho Tây, chó Nhật, phải có củ riềng, lá mơ tam thể và cả mẻ , một loại cơm lên men chua chua ngọt ngọt mà người miền Nam ít dùng, nên không làm được món thịt chó ngon và cũng không thích ăn. Trong khi ấy những người theo đạo công giáo như Bùi Chu , Phát Diệm ở Miền Bắc di cư vào Nam lại rất thích ăn thịt chó (chó ta, chuyên nuôi để ăn thịt)nhất là trong các dịp lễ đạo.
Cứ nghiên cứu các chất bài thuốc của củ riềng hay lá mơ tam thể trị các bệnh kiết lỵ thì mới thấy người Việt tinh khôn ra sao. Đó là chưa kể người Việt thường nói: Nắng gỏi ( gỏi cá với hàng chục thứ rau bài thuốc), mưa cầy, chó).
Chữ ăn tiếng Việt ròng Việt lại là mở đầu hàng trăm từ chỉ những sinh hoạt của người Việt, không phải là ăn như ăn hối lộ, ăn nằm, ăn chơi, ăn gian...Ngôn ngữ Việt lại rất phong phú tiếp nhận cả tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Anh và đặc biệt với đơn lập, đa thanh( 6 thanh), nên người Việt nói như hát, đặc biệt thơ người Việt, thơ lục bát có thể hát hàng trăm, hàng ngàn điệu hát dân ca các miền rất du dương, tình cảm chứ không kích thích hiếu chiến, nhạc hùng như tân nhạc tức ảnh hưởng nhạc Tây Phương mà không một dân tộc trên thế giới nào có được như thế.
Chính do có bản sắc riêng độc đáo, độc nhất vô nhị ấy từ cách ăn, cách mặc như tà áo dài, thơ ca luôn là vũ khí sắc bén võ trang tinh thần, nung nấu tinh thần yêu nước chống giặc như 17 lần Phưong Bắc xâm lược chứ không phải do ăn thịt chó, thịt chuột, thịt chim thú hoang như Ông Brinkley lầm tưởng người Việt hung dữ đâu.
Nếu Ông Brinkley đọc kỹ lịch sử Việt Nam sẽ thấy các vua thời nhà Lý, Trần từ thế kỷ 11- 13, tiêu biểu nhất là vua Trần Nhân Tôn mà Việt Nam vừa mở hội lễ Yên Tử ngày hôm qua, là vị vua đã chiến thắng 2 lần xâm lược của đế quốc Nguyên Mông, sửng sỏ nhất thế giới thế kỷ 13, sau khi chiến thắng quân xâm lược đã rũ áo đi tu và khai sáng phái thiền Trúc Lâm của Việt Nam, để lại gương sáng muốn đời về lòng nhân ái cho người Việt cũng như của nhân loại. Nhà vua còn chu du phía Nam và đã hứa gả công chuá Huyền Trân cho vua Chiêm để có của sính lễ lấy hai châu Ô và Lý ( Huế-Bình Trị Thiên và Quảng Nam – Đà Nẵng). Cũng như thế các chúa Nguyễn cũng rất sùng đạo Phật cũng gả công chuá Ngọc Vạn để đổi lấy đất Thủy Chân Lạp đang bị bỏ hoang của các di dân Việt đã tới đó khẩn hoang trước.
Sự thật lịch sử văn hóa Việt từ cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đối xử chỉ kể vài nét ra đây là như thế không hề hung dữ, rất trọng hoà hiếu, rất hiếu học, rất hiếu khách mà nhiều du khách Phương Tây từ thế kỷ 19 trở về trước đều đã viết trong du ký của mình, chứ không phải tôi chủ quan nói đâu.
NGƯỜI VIỆT NAM CẦN TỰ SUY NGHĨ TỰ TRÁCH MÌNH PHẢI LÀM SAO TRÁNH NHỮNG HIỂU LẦM VỀ DÂN TỘC MÌNH
Dĩ nhiên hiện còn rất nhiều những hiện tượng khác do hậu quả của cuộc chiến tranh vô cùng khốc liệt và nhiều thương đau cũng như cách quản lý còn nhiều hạn chế khiến các du khách có thể hiểu lầm về người Việt Nam. Đúng hiện còn quá nhiều vấn đề cần phải giải quyết để xây dựng một xã hội lành mạnh, văn minh được sự quí trọng của mọi người.
Một nước Việt Nam có quá khứ lịch sử đấu tranh rất đáng tự hào sẽ đáng được xây dựng thành một nước Việt Nam hùng cường trong đó có một nền ẩm thực lấy tự nhiên làm gốc vừa ngon vừa lành rất lợi cho sức khỏe con người, giúp loài người tránh được những bệnh tật thời đại như bệnh tim mạch, tiểu đường, béo phì, bệnh gút, bệnh cancer ...
Tôi từng đi vào nghiên cứu rất trẻ, năm 26, 27 tuổi , năm 1966, tôi đã là chủ nhiệm kiêm chủ bút một tập san nghiên cứu sâu là Tập san Sử Địa mà nay người Việt nam đều thừa nhận rất có giá trị. Tôi đã dành cả cuộc đời cho nghiên cứu quốc học từ việc thành lập Nhóm Nghiên cứu & Phát huy Truyền thống Việt Nam, Nhóm nghiên cứu văn hóa ăn uống Việt Nam...nên tôi rất biết đến những nét đẹp, cái hay, cái độc đáo của lịch sử, văn hóa Việt Nam, nên tôi rất yêu Việt Nam và mong truyền lại những hiểu biết cho mọi người nhất là giới trẻ Việt Nam hay cả những người nước ngoài như ông Brinkley.
Tôi thấy Việt Nam không có các triết gia song lại có những triết lý sống của dân tộc qua ca dao tục ngữ như triết lý bầu bí: “Bầu ơi thương lấy bí cùng , tuy rằng khác giống nhưng chung một dàn” hay “ Thương người như thể thương thân” hiện đang cần cho nhân loại khi mà khoa học kỹ thuật phát triển vượt bậc, với sự cạnh tranh quyêt liệt và hung dữ như thế kỷ trước thì với các lò hạt nhân, kho vũ khí hạt nhân hay hóa chất nhân tạo đang làm độc hại thay đổi khí hậu, nhấn chìm trái đất cũng như nổ tung trái đất. Không chỉ người Việt mà cả nhân loại phải thương nhau cùng cùngchung một dàn trái đất.
Việt Nam lại có rất nhiều di sản văn hóa phi vật thể quí báu của nhân loại như vừa rồi UNESCO công nhân việc thờ Quốc Tổ Hùng Vương, thờ tổ tiên ông bà cha mẹ cũng như việc thờ anh hùng dân tộc, có Đền Vệ quốc ngay từ thời Lý thế kỷ 11-12. Tôi và nhà thơ Mai Trinh vừa sáng tác hơn 1500 câu lục bát 12 hiền kinh Quốc đạo tôn vinh Quốc tổ, sự Đại hòa dân tộc, sự kiên cường chống ngọai xâm cũng như những người được cả dân tộc tôn vinh thành thánh như Đức Trần Hưng Đạo, thành phật như Giác Hoàng Trần Nhân Tôn hay Bà chúa Liễu Hạnh, bà chúa Xứ... đã được các nghệ sĩ hát thơ với nhiều làn điệu dân ca Việt Nam trong chương trình “Đêm Ca trù & Hát thơ Báo Hiếu” nhân kỷ niệm 20 năm ngày mất của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phạm văn Mùi ( Xem Google: Đêm Ca trù & Hát thơ Báo Hiếu).
Tôi cũng hy vọng cũng cơ hội này sẽ có nhiều người nghiên cứu nước ngoài, biết đâu chính ông Brinkley cũng sẽ nghiên cứu, tìm hiểu một cách khách quan những điều tôi vừa nói qua trên để viết lại như lời Ông đã hứa.
Theo tôi, đây lại là thời cơ tốt cho chính người Việt Nam từ chính quyền đến người dân phải làm sao, tự nhìn lại mình từ cái hay cái dở để không còn có sự hiểu lầm võ đoán, xúc xiểm đến cả một dân tộc này nửa.
Tôi đang dự tính viết về “người Việt xấu xí” mà trong trường ca gia đình quốc đạo do tôi và nhà thơ Mai Trinh sáng tác gồm 6000 câu lục bát, trong mục gia huấn ca tôi có nói đến 10 đặc điểm vừa xấu xí vừa cái hay của người Việt như thiếu liên kết, thiếu đoàn kết, thích hưởng thụ sớm, hoang phí vô bổ, ít quan tâm đến sự hoàn hảo, tính rất thực tế song lại hay mơ mộng, chạy theo ảo tưởng, tính cởi mở vui vẻ lại không dài lâu; yêu hòa bình, nhẫn nhịn lại không chịu bị làm nhục, tự ái rất cao...nhất là hiện nay miệt mải hận thù, ham lợi ích nhóm và cá nhân mà quên đi lòng yêu nước trong xây dựng đất nước vốn bị quá nhiều thương đau và đang quá nhiều nguy cơ như hiện nay.
Mỗi người Việt bất cứ ở đâu phải tự trách mình, lỗi tại mình trước hết!
Tôi viết bài này với mong muốn gửi tới các bạn trẻ trên thế giới nhất là các bạn trẻ Việt Nam khắp nơi trên thế giới, xin dịch ra tất cả các thứ tiếng trên thế giới nhất là tiếng Anh để ông Brinkley đọc.
Tôi cũng xin cám ơn ông Brinkley đã tạo cơ hội cho tôi viết bài này. Tôi cũng rất vui mừng thấy các bạn trẻ Việt Nam khắp nơi phản ứng rất nhanh, có người lập cả trang Web lấy chữ ký đòi đuổi việc ông Brinkley.
Với tinh thần yêu nước của người Việt cũng như tinh thần công bằng, khách quan, tôn trọng sự thật của những người nước ngoài kể cả người Mỹ khi dân tộc Việt Nam bị xúc xiểm như vừa qua, tôi rất vững tin vào tương lai của Việt Nam sẽ không sao khi có nguy cơ lớn đến đâu ở Biển Đông.
Biết đến những gì xấu xí nếu có, ở đời vốn nhân vô thập toàn mà! Đất nước nào cũng vậy, ở đâu cũng có thiên đường, ở đâu cũng có địa ngục hay những gì hay đẹp độc đáo, hay sự thật ở đâu cũng được tôn trọng cũng như sự tử tế là điều rất cần cho chúng ta.
Tôi đang mong chờ sự hồi đáp bài viết này từ các bạn trẻ trong đó có ông Brinkley
Mong,
Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, tiến sĩ sử học
Trưởng Đề án Bếp Việt- Bếp của thế giới
Email: hannguyen1940@yahoo.com
Tel: 84.0908254574
Website: www.amthuc.net.vn
Người post: HaiTB
Ngày đăng: 21-02-2013 18:06
COMMENTS CỦA THÀNH VIÊN |
Tổng số bài và comment post theo từng khoa
Khoa | Bài viết | Comment |
Sinh | 563 | 9482 |
Lý | 387 | 2824 |
Hóa | 882 | 9765 |
Luật | 721 | 11647 |
Toán | 66 | 376 |
Kinh tế | 4 | 108 |
Câu Lạc Bộ | 30 | 1 |
NCS | 3 | 70 |
Bạn bè | 197 | 1189 |
Dự bị | 0 | 0 |
Ngôn ngữ | 2 | 2 |
10 người post bài nhiều nhất
User | Số bài viết |
TungDX | 289 |
NghiPH | 306 |
NgocBQ | 130 |
ThaoDP | 108 |
CucNT | 123 |
CoDM | 88 |
PhongPT | 73 |
HaiNV | 93 |
LiTM | 85 |
MinhCK | 70 |
10 người comment nhiều nhất
User | Comment |
Guest | 7169 |
NghiPH | 3219 |
LiTM | 1879 |
HaiNV | 1853 |
KhanhT | 1743 |
CucNT | 1718 |
TungDX | 1565 |
ThanhLK | 1545 |
VanNH | 1441 |
ThoaNP | 1257 |