Mấy hôm nay rét quá. Nhớ về cái thuở chăn trâu. Ở quê tôi, nơi thả trâu là những gò đất, rẻo đất ven núi Nương Sơn, Núi Voi, Đá Trụt, Hậu Bành.
Vào mùa đông cỏ có mọc được đâu. Trong gió lạnh các đám cỏ ngắn ngủn, lơ thơ, hiu hắt, đỏ quyệch. Trâu gặm mãi không no. Lẽ ra phải yêu thương, chăm sóc “con trâu là đầu cơ nghiệp” như bố mẹ và thầy cô dạy bảo. Nhưng do mải chơi nên chúng tôi cứ để cho lũ trâu tự kiếm ăn thôi.
Hồi đó, chúng tôi chưa có áo len để mặc. Mỗi đứa được bố mẹ thắng cho hai, ba áo khách nhuộm củ nâu cứng queo. Đứa có khăn quấn cổ, đứa không. Để chống rét cần đốt lửa hay làm bùi nhùi. Chúng tôi chui vào các bụi dứa dại tìm các thân cây đã chết khô. Mấy đứa khéo tay kết rạ thành những cái bùi nhùi dài ngoẵng. Kiếm được một đoạn thân dứa dại làm bùi nhùi là hay nhất. Lửa của nó rất đượm. Cháy được khá lâu. Lại có mùi thơm thơm.
Thằng Phấn hô lên: - Vật nhau cho đỡ rét, chúng mày ơi! Chúng tôi hưởng ứng ngay. Đã vật nhau là phải cởi bớt quần áo. Trong cái lạnh căm căm, từng cặp hai đứa một lao vào nhau giữa tiếng hò reo cổ vũ vang vách núi của lũ trẻ chăn trâu.
Tổ chức đánh trận giả cũng là cách làm cho nóng người lên. Có trận đánh bằng gươm đao, có trận đánh bằng súng gỗ, súng bẹ chuối. Cũng có chỉ huy, cũng dàn trận. Lăn lê, bò toài. Tiến lên! A la xô! Xung phong! Đánh giáp lá cà. Súng gươm va vào nhau "xoang xoảng".
Chạy nhảy nhiều, bụng đói meo. Mấy đứa con trai bèn rủ nhau đi đào khoai lang. Còn mấy đứa con gái đi vơ rạ nướng khoai. Một đống lửa được đốt lên. Cả lũ nóng lòng đợi khoai chín. Dùng cái que tre chọc chọc vào các củ khoai, thằng Phấn reo to:- Khoai chín rồi! Chín rồi! Ta đánh chén thôi!
Chúng tôi chia nhau những củ khoai nóng hổi. Vừa ăn vừa thổi. Rồi cười rúc ra rúc rích. Được ăn khoai lang nướng giữa tiết trời rét đậm, rất thơm, rất ngon. Lũ trẻ chăn trâu sướng nhất trần đời!