ThoaNP
PROFILE   THƯ VIỆN ẢNH   BLOGS   LƯU BÚT   BẠN BÈ   FAVORITES   VIDEO  
 


RSS
БРЕСТСКАЯ КРЕПОСТЬ
Ngày đăng: 03/07/2016 07:40:46

БРЕСТСКАЯ КРЕПОСТЬ

Trưa thứ Bảy, thấy bài báo “Pháo đài Brest – Biểu tượng yêu nước bất tử” trong “Thể thao & Văn hóa”, tôi liền đọc ngấu nghiến và nhớ về bao kỷ niệm năm Dự bị Đại học ở Minsk.

Chớm đầu xuân năm 1971, cả khóa Dự bị Minsk của chúng tôi được Trường Tổng hợp Minsk tổ chức đi tham quan Pháo đài Brest. Trước đó trong mấy tiết tiếng Nga, các cô giáo đã kể chuyện, giới thiệu về Pháo đài Brest và tác phẩm “Pháo đài Brest” của nhà văn Сергей Смирнов. Tôi còn nhớ tuy hồi đó tiếng Nga lõm bõm, nhưng cũng hiểu về những uẩn khúc mà các chiến sĩ Hồng quân bị bắt làm tù binh sau khi Pháo đài thất thủ, may mắn hơn đa số đồng đội hoặc đã hy sinh trong trận chiến hoặc chết trong các trại tập trung của phát xít Đức, đã sống sót qua trại tập trung của phát xít nhưng sau chiến thắng lại tiếp tục bị quản thúc trong các trại giam thời Stalin do bị xem là phản bội. Nhà văn Сергей Смирнов là một trong những người tích cực nhất trong việc sưu tầm tài liệu, tìm lại các chiến sĩ và đưa chiến công của Pháo đài Brest ra ánh sáng. Nhiều năm liền nhà văn đã đăng thông tin tìm kiếm những người anh hùng vô danh của thành Brest trên radio và TV, tạo thành một làm sóng truy tìm các chiến sĩ trong cả nước. Nhà văn đã nhận được hơn 1 triệu lá thư phản hồi.

Chuyến đi thăm Pháo đài Brest của Khóa dự bị chúng tôi kéo dài 2 ngày, để lại trọng tôi những kỷ niệm khó quên. Đó là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy và ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thuần khiết với hương thơm dịu nhẹ của hoa ландыш nhú lên từ lớp lá mục của rừng bạch dương khi tuyết còn chưa tan hết.

Trong chuyến đi này lần đầu tiên tôi nhận được bức thư tỏ tình của 1 bạn trai học cùng lớp dự bị, thư dài khoảng 8 trang giấy vở học trò (chữ khá to). Sự kiện này hầu như con gái cả khóa biết, vì bạn trai này ngượng nên nhờ bạn gái ở lớp khác chuyển cho tôi. Tất cả tụi con gái xúm vào đọc (lần đầu tiên có một thư tỏ tình mà lại dài nữa chứ) và mấy đứa bạn thân ngồi thảo thư trả lời. Tuy nhiên tôi đã giấu các bạn xé thư trả lời này bỏ đi, và không trả lời gì hết.

Cuối bài báo có mẩu tin là tối thứ bảy sẽ chiếu phim “Pháo đài Brest” tại Salon điện ảnh Café thứ Bảy trên đường Phạm Ngọc Thạch, tôi tính rủ Dũng đi xem, nhưng lại nghĩ “Dũng đâu có học ở Minsk, đâu có nhiều kỷ niệm với đất nước Belarusia và thành Brest như mình, chắc Dũng chẳng quan tâm” nên thôi.

Ai ngờ buổi chiều, Dũng đưa tôi tờ báo và chỉ vào khung nói về buổi chiếu phim (đúng là chí lớn gặp nhau!). Thế là hai tên bỏ cả ăn tối phóng đi xem. Buổi chiếu đang thời Euro chỉ có 5 người xem. Đầu tiên đạo diễn Bá Vũ nói vài lời giới thiệu, anh cũng chính là tác giả bài báo. Bộ phim thật sự hay và xúc động. Khi phim kết thúc, nước mắt tôi vẫn còn rơi.

 

Pháo đài Brest được xây dựng từ năm 1833 – 1838, nằm cách thị trấn Brest một dặm về phía tây. Dãy thành trì là trung tâm của pháo đài, nó nằm trên đảo và được bao bọc ở phía tây bởi dòng sông Bug và sông Muhavets. Bức tường gạch của dãy thành lũy dày được xây làm hai tầng để dùng làm doanh trại với năm trăm hầm tránh đạn. Phía dưới doanh trại là các nhà kho và một mạng lưới các đường hầm.

Pháo đài này có hai cổng Holmskie và Brestskie, liên thông thành lũy với cây cầu bắc qua sông Muhavets. Cánh cổng thứ ba là Terespolskie, mở ra hướng tây cây cầu bắc qua sông Bug. Các cây cầu đều dẫn đến các hòn đảo nhân tạo, ở đây là những công sự vòng ngoài, Kobrinskoye ở phía bắc, Terespolskoye ở phía tây và Volynskoye ở phía nam. Pháo đài được rào chắn bằng một bức rào đất cao 10 m.

Mặc dù không còn tác dụng phòng thủ trong chiến tranh hiện đại nhưng Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô vẫn đặt Pháo đài Brest vào kế hoạch phòng thủ biên giới và coi nó như một khu phòng ngự kiên cố của Quân khu đặc biệt miền Tây. Đây là nơi huấn luyện quân sự cho tân binh của các đơn vị thuộc tập đoàn quân 4, cũng là nơi thực hành các cuộc diễn tập quân sự đồng thời là căn cứ hậu cần, quân y tiền phương. Bản thân pháo đài và 5 đồn phòng thủ xung quanh pháo đài cũng được gấp rút củng cố để trở thành khu phòng thủ vững chắc. Tuy nhiên, Quân khu đặc biệt miền Tây không kịp hoàn thành kế hoạch này. Các công trình quân sự mới chỉ được bắt đầu đổ móng thì chiến tranh đã nổ ra.

 

Vào hồi 4 giờ sáng ngày 22 tháng 6 năm 1941 (giờ Moskva), quân Đức vượt qua biên giới giữa Liên Xô và Ba Lan, đến 4 giờ 15 thì các lực lượng thuộc tập đoàn quân Trung tâm của chúng bắt đầu tấn công pháo đài Brest. Quân Đức được chỉ thị lên kế hoạch sẽ chiếm pháo đài trong vòng vài giờ. Chúng đã nã pháo vào pháo đài liên tục trong vòng nửa tiếng đồng hồ, và đã phá hủy hoàn toàn các kho đạn dược, lương thực, khí tài quân sự và các doanh trại. Đạn pháo của chúng còn phá hủy hoàn toàn mạng lưới liên lạc vầ hệ thống cung cấp nước ngọt.

Ba sư đoàn bộ binh thuộc quân đoàn 12 của đại đoàn 4 quân Đức đã tham gia tấn công pháo đài. Sư đoàn bộ binh 45, đã kết hợp với một số binh lính của sư đoàn bộ binh 31, đã ồ ạt tấn công vào pháo đài. Sư đoàn bộ binh số 34 và hai sư đoàn tăng thuộc quân đoàn tăng số 2 cùng số quân còn lại của đoàn 31 đánh thọc sườn. Các mũi tấn công chính của chúng tiếp ứng phía sau.

Ngoài ý nghĩa đánh chiếm một căn cứ quân sự tiền tiêu (cho dù không thật sự quan trọng), việc hạ pháo đài Brest còn có một ý nghĩa tâm lý để động viên tinh thần của quân đội Đức Quốc xã. Chiến thuật cơ bản của quân đội Đức là sự dụng tối đa yếu tố bất ngờ và ưu thế tuyệt đối về binh lực, vũ khí, phương tiện, xe tăng, pháo binh và không quân để đánh chiếm pháo đài ngay trong ngày đầu tiên của cuộc chiến. Biện pháp tác chiến thông dụng là dùng hỏa lực pháo, bom với mật độ cao ngay từ giờ đầu, phá hủy các công trình phòng thủ, làm tan rã tinh thần quân đồn trú của đối phương; sau đó dùng bộ binh để giải quyết nốt "phần còn lại" của nhiệm vụ.

Khi đó, trong pháo đài có khoảng tám ngàn binh sĩ Xô Viết được dàn trận phòng thủ để bảo vệ pháo đài Brest, trong khi đó thì chỉ mỗi sư đoàn 45 của địch cũng có đến 17 ngàn lính.

Tại thời điểm tấn công, có các đơn vị đóng trong pháo đài Brest như: 7 tiểu đoàn súng trường, 1 tiểu đoàn trinh sát, 2 khẩu đội pháo.
Các binh sĩ bổ nhiệm của hai sư đoàn súng trường số 6 và số 42
Một số đơn vị thuộc biệt đội đường biên Brest số 17 của trung đoàn công binh biệt lập số 33 và của tiểu đoàn 132 trực thuộc lực lượng NKVD
Ban tham mưu quân đoàn súng trường số 28. Một số đơn vị đặc nhiệm của trung đoàn súng trường.
Ngoài ra còn có các gia đình của khoảng 300 quân nhân cũng có mặt tại pháo đài.

Đầu mùa hè năm 1941, 4 trung đoàn bộ binh và các đơn vị pháo, xe tăng của hai sư đoàn 6 và 42 đang tham gia cuộc diễn tập phòng thủ dã ngoại và đã không kịp rút về pháo đài khi quân Đức tấn công. Trong pháo đài hầu như không còn pháo và xe tăng hoạt động được. Đây là số vũ khí và phương tiện đang tình trạng kiểm tra, sửa chữa và bảo dưỡng nên không thể sử dụng trong chiến đấu.

Cuộc tấn công của địch xảy ra rất bất ngờ, và quân Đức đã nhanh chóng chia cắt quân đồn trú ra thành từng nhóm. Trong khí đó, quân đồn trú không hề nhận được một mệnh lệnh nào từ cấp chỉ huy; Không một kế hoạch phòng thủ nào được lập, và họ cũng không hề biết một tin tức gì về tình hình ở các quân khu khác trên mặt trận.

Vào hồi 9 giờ sáng, quân Đức đã bao vây hoàn toàn pháo đài. Các mũi tấn công của sư đoàn 45 địch đã vượt qua cầu gần cổng Terespolskie, chúng cắt qua thành lũy và chiếm hai tòa nhà trung tâm ở đây. Cùng thời điểm đó, quân Đức bắt đầu tấn công các cổng Holmskie và Brestskie. Đồng thời, lính Đức cũng tiến hành đánh mạnh từ các ngả công sự ở Kobrinskoye và Volynskoye. Đợt tấn công này của địch đã bị đánh bại bởi một cuộc phản công bằng lưỡi lê và quân đồn trú chiếm lại được các tòa nhà đã bị mất từ trước. Các binh sĩ Xô Viết đã ném quân địch ra khỏi thành lũy và lấy lại kiểm soát cây cầu bắc qua phía tây sông Bug. Họ đã chiến đấu anh dũng để ngăn không cho quân Đức băng qua sông.

Các trận đánh ác liệt đã diễn ra trên khắp pháo đài. Bị mất liên lạc hoàn toàn, hiệu quả tương tác giữa các đơn vị riêng lẻ của quân đồn trú là không thể. Rất nhiều sĩ quan chỉ huy đã hy sinh ngay từ loạt đạn đầu tiên, để cho các công nhân hỏa tuyến và những người lính trơn tự chịu trọng trách chỉ huy các tổ phòng thủ.

Sau vài giờ tấn công, quân đoàn 112 của Đức lại được lệnh phải lập tức huy động toàn bộ các lực lượng dự bị để tung vào trận. Chỉ huy sư đoàn bộ binh 45, tướng Fritz Shlipper, đã báo cáo rằng, quân tăng viện của các đơn vị tham chiến đã không thay đổi được tình thế, ông ta đã nhận thấy rằng, quân đội Xô Viết đã đánh cho lính Đức bị thiệt hại nặng nề. Có vẻ viên tướng gần như không thể chịu được, khi chỉ trong ngày 22 tháng 6, đã có 21 sĩ quan và 290 lính Đức của sư đoàn 45 đã bị tử trận.

Dưới làn đạn pháo và các đợt tấn công, các chiến sĩ phòng thủ vẫn giữ vững được thành lũy. Năm đợt tấn công của định đã bị bẻ gãy ngay từ ngày đầu tiên bị vậy hãm. Chiều ngày 22 tháng 6, quân Đức chiếm được một phần doanh trại nằm giữa hai cổng Holmskie và Terespolskie, và một phần doanh trại gần cổng Brestskie, sau đó chúng rút lui để thiết lập vòng vây pháo đài.

Vào lúc 5 giờ sáng ngày 23 tháng 6, quân Đức lại bắt đầu pháo kích vào thành lũy. Đội quân bị vây hãm đã tìm thấy một kho đạn còn nghuyên vẹn, ngay lập tức họ đã dùng số đạn dược đó trút hàng trận bão lửa dữ dội xuống đầu quân địch ở bên ngoài. Lúc này, ba chiếc tăng của Đức xông thẳng vào bức thành lũy, nhưng cũng ngay lập tức, chúng bị thổi bay bởi đạn pháo của những người bảo vệ pháo đài. Đến 5 giờ chiều quân Đức đã ngưng pháo kích và bắt đầu chĩa loa kêu gọi quân Xô Viết đầu hàng.

Đến ngày 24 tháng 6, ban tham mưu sư đoàn 45 báo cáo rằng, đã chiếm được pháo đài, nhưng cuộc vây hãm vẫn tiếp tục. Quân đội Xô Viết vẫn đang kiểm soát bức thành lũy và phần phía đông của đảo Bắc. Các đơn vị chiến đấu của Đức đã dùng chất nổ và súng phun lửa để nhằm tiêu diệt các ổ đề kháng của các đơn vị Xô Viết tại công sự phía đông trên đảo Bắc. Khoảng 400 chiến sĩ, dưới sự chỉ huy của thiếu tá Pyotr Gavrilov, đang chiến đấu bảo vệ công sự. Theo như báo cáo của quân Đức, các chiến sĩ bắn tỉa Xô Viết “Đã liên tục bắn ra từ những vị trí bất ngờ nhất”.

Đến ngày 26 tháng 6, các chiến sĩ phòng thủ trên thành lũy đã quyết định phá vòng vây để vượt ra khỏi pháo đài. Một đội quân khoảng 100 – 200 chiến sĩ, dưới sự chỉ huy của trung úy Anatoly Vinogradov, đã nhận nhiệm vụ tiên phong. Kết quả, đội quân này đã tử trận mất một nửa, nhưng họ vẫn quyết định vượt vây; Những chiến sĩ đó đã không thể quay lại được thành lũy. Đến chiều, đội của Vinogradov đã bao vậy chặt, và Vinogradov bị bắt làm tù binh. Đây là đợt phá vây cuối cùng của binh lính Xô Viết nhằm thoát khỏi pháo đài.

Ngày 28 tháng 6, tướng Shlipper đã phải cầu cứu sự giúp đỡ của không quân. Ngày hôm sau, máy bay chiến đấu của Đức đã ném bom dữ dội xúng tuyến công sự phía đông. Kết quả là, tuyến công sự này bị phá hủy hoàn toàn và có 389 chiến sĩ Xô Viết bị bắt làm tù binh. Cùng ngày hôm đó, quân Đức cũng chiếm được dãy thành lũy và bắt được các sĩ quan chỉ huy ở đây là Ivan Zubachev và Efim Fomin làm tug binh. Fomin là người Do Thái và là một chính ủy, do vậy bọn Đức đã treo cổ ông ngay lập tức. Đến ngày 30 tháng 6, Shlipper lại một lần nữa báo cáo rằng, đã chiếm được pháo đài, nhưng cũng một lần nữa ông ta nhầm lẫn hoặc báo cáo láo.

Một nhóm nhỏ gồm khoảng 15 chiến sĩ Xô Viết, do Pyotr Gavrilov chỉ huy, đã anh dũng chiến đấu với quân Đức đến tận cuối tháng bảy. Các công dân ở Brest vẫn còn nghe thấy tiếng súng, tiếng nổ và nhìn thấy những tên lính Đức bị thương được đưa ra. Cuối cùng, mãi đến ngày 23 tháng 7, Gavrilov mới bị bắt làm tù binh.

Sư đoàn 45 của định bị tổn thất 482 binh sĩ và hơn 1000 tên bị thương trong cuộc vây hãm. So sánh với chiến dịch Ba Lan 13 ngày đêm, thì trung đoàn này chỉ mất có 158 tên tử trận và 360 tên bị thương. Trong tháng 7, tướng Shlipper viết vào một trong những báo cáo của mình: “Ở Brest, quân Nga đã chiến đấu bền bỉ thật đáng kinh ngạc, điều này cho thấy có một sự huấn luyện bộ binh tuyệt vời và có ý chí kháng cự đáng phái khâm phục”.

Vào tháng 2 năm 1942, quân đội Nga đã triệt phá được một trong những đơn vị chiến đấu của Đức, và đã tìm thấy nhiều tài liệu lưu trữ của đơn vị này báo cáo về hàng phòng thủ pháo đài Brest. Đây là những thông tin đầu tiên về những chứng tích anh hùng của các chiến sĩ bảo vệ pháo đài Brest mà bộ chỉ huy tối cao của Xô viết nhận được. Vào những năm 1960, hàng phòng thủ pháo đài Brest đã trở thành biểu tượng chủ nghĩa anh hùng của nhân dân Xô Viết.

Những dòng chữ còn lưu lại trên bức tường trong pháo đài Brest:
“Cho dù tôi có chết, nhưng nhất quyết không chịu đầu hàng. Xin vĩnh biệt tổ quốc! 20.07.1941”. Có những dòng chữ khác lặp lại – “Chúng tôi sẽ hy sinh, nhưng nhất định không rời khỏi pháo đài” hay “Có đứa chúng tôi ở đây, chúng tôi không hề mất can đảm, và chúng tôi sẽ hy sinh như những anh hùng”.

Đến khi pháo đài hoàn toàn bị chiếm đóng, quân Đức đã không tìm được bất kỳ một lá cờ nào của các đơn vị phòng thủ.

Trích từ chương “Lá cờ” trong “Pháo đài Brest”:

Năm 1955, khi các báo bắt đầu đăng bài về cuộc phòng thủ pháo đài Brest, một công nhân của nhà máy luyện kim, hạ sĩ dự bị Rôđiôn Xêmêniuc đến găp một ủy viên quân sự quận của thành phố Xtalinsk-Kyznetski ở Xibir.

- Năm 1941, tôi chiến đấu ở pháo đài Brest và đã chôn giấu lá cờ của tiểu đoàn chúng tôi ở đó.- anh trình bày - Hẳn là nó vẫn còn nguyên vẹn. Tôi nhớ chỗ chôn giấu, và nếu được cho về Brest, tôi sẽ lấy nó lên. Trước đây chúng tôi đã viết thư cho đồng chí.

Ủy viên quân vụ là một người dửng dưng và không thích làm bất cứ việc gì không do cấp trên trực tiếp ra lệnh. Trước đây ông ta đã từng ở mặt trận, chiến đấu không tới nỗi tồi, đã bị thương, đã được khen thưởng nhiều lần trong chiến đấu, nhưng sau khi vào làm việc ở trong văn phòng, dần dần ông ta đâm sợ những gì làm đảo lộn nếp sống quen thuộc của cơ quan quân vụ và vượt ra ngoài khuôn khổ những chỉ thị từ trên đưa xuống. Mà không hề có chỉ thị gì về việc phải xử trí ra sao với những lá cờ được chôn giấu từ thời Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Ông ta nhớ rằng một năm hay một năm rưỡi trước đó, ông ta nhận được một lá thư của anh chàng Xêmêniuc này nói về lá cờ, ông ta đã đọc thư, suy nghĩ một lái rồi ra lệnh cất thư vào hồ sơ lưu trữ, không trả lời. Thêm nữa, căn cứ vào hồ sơ cá nhân lưu trữ ở phòng quân vụ, tay ủy viên này coi Rôđiôn Kxênôfôntôvits Xêmêniuc là kẻ đáng nghi ngờ. Anh ta ở trong trại tù binh ba năm rưỡi, rồi sau đó chiến đấu trong đội du kích nào không rõ. Tay ủy viên này dứt khoát coi những người đã từng bị địch bắt làm tù binh là những kẻ đáng ngờ và không đáng tin cậy. Với lại, những chỉ thị ông ta nhận được trong những năm trước đã căn dặn là không được tin những người từng bị giam trong trại tù binh.

Nhưng giờ bây giờ, chính Xêmêniuc ngồi trước mặt ông ta, và phải tìm các gì đó trả lời lá đơn của anh ta về lá cờ. Với thái độ nhăn nhó, lộ vẻ khó chịu, chốc chốc lại nhìn vào khuôn mặt cởi mở, hồn nhiên của anh chàng Xêmêniuc dáng người tầm thước và còn rất trẻ này, ủy viên quân vụ gật gù ra vẻ quan trọng.

- Tôi nhớ, tôi nhớ, công dân Xêmêniuc ạ. Chúng tôi đã đọc lá thư của anh...Chúng tôi đã bàn bạc với nhau...Lá cờ ấy hiện thời không có ý nghĩa gì đặc biệt. Thế đấy ...

- Nhưng đó là pháo đài Brest, thưa đồng chí ủy viên - Xêmêniuc bối rối bác lại ý kiến đó - Báo chí đã viết về pháo đài Brest.

Tay ủy viên này hiểu biết rất lơ mơ về pháo đài Brest và chưa hề đọc vấn đề này. Nhưng ông ta không muốn làm hại uy tín của mình.

- Đúng...báo có viết...tôi biết, tôi biết, công dân Xêmêniuc ạ ... tôi có xem. Báo thì viết đúng đấy. Nhưng báo viết là một chuyện còn đây là một chuyện ... Chẳng có gì quan trọng ... Thế đấy ... Như vậy là ...

Rời phòng quân vụ ra về, Xêmêniuc bàng hoàng buồn bã. Chẳng lẽ quả thực lá cờ chiến đấu của tiểu đoàn pháo cao xạ độc lập 393, lá cờ tiêu biểu cho linh hồn chiến đấu của hộ ở đồn ĐÔng trong pháo đài Brest đã không còn ý nghĩa gì với nhân dân, đối với lịch sử nữa hay sao? Anh cho rằng ở đây có cái gì đó không đúng, nhưng anh cho rằng ủy viên quân vụ là người được tín nhiệm, ông ta hẳn phải biết phân biệt giá trị thực của lá cờ đó.

Xêmêniuc thường vẫn nhớ lại những ngày khủng khiếp ở đồn Đông. Anh nhớ, anh mang lá cờ đó trên ngực, dưới áo va-rơi và luôn lo sợ mình sẽ bị thương hoặc sẽ ngất đi và sa vào tay địch. Anh nhớ cuộc họp đảng viên, trong đó mọi người thề chiến đấu tới cùng. Rồi, trận ném bom khủng khiếp ấy khiến các lũy đất chao đảo và gạch đổ ụp xuống từ các bức tường, từ trên trần. Khi ấy, thiếu tá Gavrilôp đã ra lệnh chôn giấu lá cờ để nó khỏi lọt vào tay bọn Phát xít: lúc đó đã thấy rõ rằng đồn không còn cầm cự được bao lâu nữa.

Ba người cùng chôn giấu lá cờ đó: Xêmêniuc cùng với chiến sĩ bộ binh có họ là Taxarov và một người cùng làng với Xêmêniuc tên là Ivan Fônvarkôp. Thậm chí Fônvarkôp đã đề nghị đốt là cờ nhưng Xêmêniuc không nghe. Họ bọc lá cờ trong tấm vải bạt, đặt vào cái xô bằng vải bạt lấy ở chuồng ngựa rồi đặt tất cả vào một cái xô bằng kẽm và chôn giấu trong một căn hầm tránh đạn. Họ vừa kịp chôn xong và phủ rác lên lớp đất lèn chặt thì bọn phát xít ập vào đồn. Taxarov bị bắn chết ngay lúc đó, 2 người còn lại thì bị bắt làm tù binh. Fônvarkôp chết trong trại giam bọn Hitle.

Nhiều lần, cả trong trại giam cũng như sau khi trở về Tổ quốc, Xêmêniuc thường tưởng tượng thấy anh đang đào lá cờ đó lên. Anh nhớ rằng căn hầm ở lũy móng ngựa bên ngoài, cánh bên phải lũy, nhưng anh không nhớ đó là căn hầm thứ mấy tính từ phía ngoài cùng. Nhưng anh chắc rằng nếu được tới tận nơi thì anh tìm thấy căn hầm đó ngay. Nhưng làm thế nào để tới được đấy.

Mãi tới năm 1956, khi nghe đài phát thanh nói về cuộc phòng thủ ở pháo đài và được biết về cuộc gặp mặt của các anh hùng pháo đài Brest, Xêmêniuc hiểu rằng người ủy viên quân vụ kia làm thế là không đúng. Anh viết thư thẳng về Moskva, gửi đến tổng cục chính trị của bộ Quốc phòng. Lập tức có lệnh triệu tập của Tổng cục, Xêmêniuc được mời về thủ đô ngay tức khắc. Anh tới Brest hồi tháng 9, một tháng sau khi các anh hùng của cuộc phòng thủ về thăm nơi này. Rồi một hôm, cùng với mấy sĩ quan và binh lính mang theo xẻng cuốc, anh vào sân móng ngựa của đồn Đông.

Xêmêniuc cảm động, hai tay anh run lên. Cả những kỷ niệm dồn dập hiện về, kỷ niệm về những gì anh đã trải qua ở đây, trên mảnh đấy này, cũng như nỗi sợ lần đầu tiên đến với anh: "ngộ nhỡ ta không tìm thấy lá cờ thì sao?!". Tất cả các điều đó đã tác động tới anh.

Họ vào cái sân hẹp giữa những bức lũy. Mọi người nhìn Xêmêniuc bằng cặp mắt dò hỏi. Còn anh đứng lại, chăm chú nhìn quanh, cố thu thập những ý nghĩ tản mạn và tập trung tư tưởng nhớ lại thật tỉ mỉ cái ngày ấy, ngày 30 tháng 6 năm 1941.

- Tôi nhớ là ở chỗ này! - Anh vừa nói vừa chỉ 1 cái cửa căn hầm.

Trong một căn hầm, anh nhìn xung quanh và giậm 1 chân xuống sàn.

- Chỗ này đây.

Một người lính mang xẻng chuẩn bị đào. Nhưng anh bỗng ngăn lại:

- Khoan đã.

Và anh vội vã tới gần của hầm, ngó ra cái sân nhỏ, ước lượng khoảng cách tới rìa lũy. Sự bồn chồn làm anh run lên.

- Không! - cuối cùng anh nói một cách quả quyết - Không phải căn hầm này. Hầm bên cạnh kia.

Họ sang hầm bên cạnh, căn hầm cũng y hệt như hầm này, và Xêmêniuc gạt mấy người lính ra:

- Để tôi tự đào lấy!

Anh cầm xẻng và bắt đầu đào, hấp tấp và nóng nảy gạt đất sang một bên. Đất đã lún xuống qua nhiều năm, rắn chắc và khó đào.

Xêmêniuc thở hồng hộc, mồ hôi rỏ xuống như mưa, nhưng lần nào anh cũng gạt đi khi mấy người lính muốn giúp đỡ anh. ANh phải tự tay đào lá cờ ấy lên, tự tay anh thôi ...

Mọi người im lặng, hồi hộp theo dõi việc anh làm. Cái hố đã khá sâu, mà Xêmêniuc nói rằng anh chôn sâu chừng nửa mét: các sĩ quan đưa mắt nhìn nhau với vẻ ngờ vực.

Chính Xêmêniuc cũng đã bắt đầu thất vọng. Vậy thì nó ở đâu, lá cờ đó ở đâu?. Đáng lẽ phải đào thấy từ lâu rồi. Hay anh nhận nhầm căn hầm, vì hầm nào cũng giống hết nhau kia mà? Hay có lẽ là lá cờ đã bị bọn Đức đào lên từ hồi ấy, từ năm 1941?

Bỗng nhiên, khi anh đã toan thôi không đào nữa thì lưỡi xẻng bỗng chạm vào một vật gì đó, rõ ràng là tiếng va vào kim loại và dưới đất hiện ra một vật gì rìa bằng kim loại, giống hình cái đĩa.

Đấy là đáy cái xô bằng kẽm. ANh lập tức nhớ ra hồi ấy



Bookmark:

[ Xem thêm Emoticons ]



Xem 1 - 1 của tổng số 1 Comments

Từ: HanhLT
28/08/2016 23:58:50

Mỗi khi nhớ đến chiến tranh biên giới năm1979 mình lại có liên tưởng tới  pháo đài Brest và cuộc chiến của phát xít Đức.Thật kinh khủng khi hoa bình chưa đc bao lâu lại chiến tranh...cuộc chiến mặt đối mặt không kém phần tàn bạo.